TĂNG KALI-HUYẾT
(HYPERKALIEMIA)
Adam J.Rosh, MD
Assistant Professor
Department of Emergency Medicine
Wayne State University School of Medicine
Detroit, MI
TEST 2
Một người đàn ông 55 tuổi đến khoa cấp cứu với yếu người nặng dần, muscle cramp, và dị cảm. Tiền sử của bệnh nhân đáng chú ý với cao huyết áp và bệnh đái đường. Bệnh nhân hút một gói thuốc lá mỗi ngày. Lúc khám bệnh nhân tỉnh táo và định hướng và yế
u khắp người. Một điện tâm đồ với kết quả dưới đây.Biện pháp quan trọng nhất trong số những biện pháp sau đây để điều trị bệnh nhân :
(a) Cho calcium gluconate
(b) Cho insulin và dextrose
(c) Cho aspirin và gởi catheterization laboratory
(d) Cho chụp cắt lớp vi tính đầu cấp cứu và hội chẩn chuyên khoa thần kinh.
(e) Lấy mẫu nghiệm nước tiểu và xét nghiệm tìm ketone
Câu trả lời đúng là a
Bệnh nhân có tăng kali-huyết đe dọa mạng sống. Điện tâm đồ cho thấy phức hợp QRS giãn rộng, những sóng T nhọn (peaked T wave), và không có sóng P. Vào bất cứ lúc nào, nhịp của bệnh nhân cũng có thể trở thành rung thất hay vô tâm thu. Có nhiều triệu chứng tăng kali-huyết thường khó phân biệt với những triệu chứng của tình trạng nguyên phát gây nên tăng kali-huyết. Bệnh nhân có thể bắt đầu với ngủ lịm và yếu và tiến triển thành bại liệt và mất phản xạ. Nếu không có bất thường điện tâm đồ ở một bệnh nhân với tăng kali-huyết, điều trị có thể bắt đầu với potassium binding resins (Kayexalate). Tuy nhiên, bệnh nhân này đòi hỏi cho tức thời calcium bởi vì bệnh nhân có một nhịp tim không ổn định. Calcium (gluconate hay chloride) đối kháng với những tác dụng của potassium trong cơ tim và ổn định màng tế bào. Tuy nhiên, sẽ không hạ nồng độ của potassium ; để gia tăng sự chuyển potassium qua tế bào và loại bỏ khỏi cơ thể, cũng sẽ cần những biện pháp khác.(b) Insulin tác động để tái phân bố potassium thặng dư từ ngăn ngoài tế bào vào ngăn trong tế bào do đó hạ nồng độ huyết thanh một cách tạm thời. Dextrose được cho để ngăn ngừa giảm đường huyết. Sodium polystyrene sulfonate (Kayexalate) là một điều trị đối với tăng kali-huyết bởi vì nó loại bỏ potassium khỏi cơ thể. Tuy nhiên, quá trình không xảy ra tức thời nhưng cần từ 30 phút đến 2 giờ để cho thấy những kết quả. Điều trị khác đối với tăng kali-huyết là thẩm tách (dialysis).
(c) Aspirin phải được cho ở tất cả những bệnh nhân bị đau ngực do bệnh động mạch vành. Những bệnh nhân với điện tâm đồ phù hợp với nhồi máu cơ tim với đoạn ST chênh lên phải được gởi đến catherization laboratory.
(d) Mặc dầu bệnh nhân có triệu chứng yếu toàn bộ, nhưng điện tâm đồ phù hợp với tăng kali-huyết đe dọa mạng sống và cần được điều trị cấp cứu. Một chụp cắt lớp vi tính đầu không cần vào lúc này.
(e) Kiểm tra ketone trong nước tiểu là một bước quan trọng trong hiệu chính để đánh giá tìm ketoacidosis. Tuy nhiên cần phải đợi cho đến khi bệnh nhân ổn định.
Reference : Emergency Medicine. Pretest
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(25/10/2016)
Pingback: Intensive care medecine số 13 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương
Pingback: Cấp cứu nội tiết và chuyển hóa số 54 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương
Pingback: Cấp cứu nội tiết và chuyển hóa số 55 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương