Thời sự y học số 623 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ BA HƯỚNG ĐỂ CHIẾN THẮNG BỆNH LAO

BCG mừng 100 năm nhưng bệnh lao vẫn còn giết chết. Các nhà nghiên cứu đã mở ra ba mặt trận để triệt trừ nó : sự khám phá một vaccin hiệu quả hơn, sự hiệu chính những điều trị với thời gian ngắn hơn và có thể tiếp cận và sự phát triển nhưng xét nghiệm để tiên đoán những đề kháng.
Không, bệnh lao đã khong biến mất. Căn bệnh khủng khiếp này luôn luôn chịu trách nhiệm, 100 năm sau sự tiêm chủng đầu tiên ở Pháp bởi BCG nổi tiếng (bacille de Calmette et Guréin), 1,5 triệu người chết mỗi năm trên thế giới. Mỗi năm, 10 triệu trường hợp mới được thống kê. Ở Pháp, tỷ lệ mắc bệnh đã chuyển từ 155 trường hợp đối với 100.000 dân vào năm 1946 xuống 7,4 năm 2014. Nhưng từ đó, con số này đình trệ và các thầy thuốc luôn luôn phát hiện khoảng 5000 trường hợp mỗi năm. Mặc dầu tỷ lệ mắc bệnh quốc gia dường như thấp, nhất là so với tỷ lệ cao hơn nhiều trong 8 nước, tập trung 2/3 của những trường hợp trên thế giới, như Phi luật tân (560 trường hợp đối với 100.000 dân). Nhưng nó che dấu những khác nhau địa lý và xã hội quan trọng. 3 vùng vẫn có nguy cơ cao : Guyane, Mayotte và Ile-de-France. Tình trạng nghèo nàn, sự suy dinh dưỡng, sự suy giảm miễn dịch (thí dụ ở những bệnh nhân sida) là bấy nhiêu những yếu tố nguy cơ được nhận diện rõ, cũng giải thích tỷ lệ cao được tìm thấy ở những di dân…
Hôm nay, gần 1/3 dân số thế giới mang trực khuẩn Koch (Mycobacterium tuberculosis). Vi khuẩn này biết trở nên im lặng và thức dậy đôi khi ồn ào. Nếu ta ước tính rằng chẩn đoán và điều trị bệnh lao đã cho phép cứu 60 triệu mạng sống giữa 2000 và 2019, tình hình không cải thiện nữa, mặc dầu một vaccin và những kháng sinh đặc biệt. Hai lý do cho điều đó. Lý do đầu tiên là tính hiệu quả kém của BCG. Chúng ta cần những vaccin mới bảo vệ đồng thời chống nhiễm trùng và sự truyền, Olivier Neyrolles, huy chương bạc của CNRS và giám đốc của Viện dược học và sinh học cấu trúc (đại học Paul-Sabatier,Toulouse) đã nhấn mạnh như vậy. Chính vì điều đó mà chúng ta còn phải hiểu tốt hơn tính miễn dịch phức tạp của vi khuẩn lao và đẩy mạnh những cố gắng nghiên cứu cơ bản của chúng ta. Lý do thứ hai liên kết với những đề kháng được phát triển một cách đều đặn bởi vi khuẩn. Hôm nay, có sự khẩn cấp. Một báo cáo của OMS, được công bố năm 2020, định rõ rằng nếu những biện pháp không được áp dụng một cách nhanh chóng, vùng châu Âu của OMS (53 nước) sẽ không thành công triệt trừ căn bệnh, lúc ban đầu được dự kiến vào năm 2030. Vì vậy các nhà nghiên cứu theo đuổi ba hướng : khám phá một vaccin hiệu quả hơn, hiệu chính những điều trị ngắn hơn và có thể tiếp cận và phát triển những trắc nghiệm để tiên đoán những đề kháng.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhãn khoa số 3 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CẤP CỨU CHẤN THƯƠNG MẮT

1/ KỂ HAI CẤP CỨU NHÃN KHOA NGUY KỊCH NHẤT VỀ MẶT THỜI GIAN ?
– Tắc động mạch võng mạc trung tâm (central retinal artery occlusion) và bỏng mắt do chất hoá học.
– Tắc động mạch võng mạc trung tâm có thể được gây nên bởi nghẽn mạch (emboli), huyết khối (thrombosis), viêm động mạch trán (temporal arteritis hay giant cell arteritis), viêm huyết quản (vasculitis), bệnh hồng cầu liềm (sickle cell disease), hay chấn thương. Thường được báo trước bởi chứng thoáng mù (amaurosis fugax). Bệnh nhân mất thị giác không đau đớn, hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Chỉ định hội chẩn nhãn khoa cấp cứu.
– Thương tổn mắt do chất hóa học (ocular chemical injury) : Nếu bệnh nhân điện thoại đến phòng cấp cứu để xin lời khuyên sau khi bị bỏng bởi chất hóa học thì nên bảo bệnh nhân tưới rửa mắt tức thời với số lượng nước dồi dào. Một thầy thuốc nhãn khóa cần đánh giá bệnh nhân ở phòng cấp cứu nếu có thương tổn nghiêm trọng, như phù kết mạc (chemosis) rõ rệt, kết mạc tái nhợt (conjunctival blanching), phù hay mờ đục giác mạc, hoặc tăng áp lực nội nhãn (intraocular pressure).

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhãn khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

La tendinopathie

Đăng tải tại Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu sản phụ khoa số 23 – BS Nguyễn Văn Thịnh

TẤN CÔNG TÌNH DỤC
(SEXUAL ASSAULT)

+ Tấn công tình dục (sexual assault) bao gồm tất cả tiếp xúc tình dục (sexual contact) cưỡng ép hay không thích đáng, có hay không có sự đưa dương vật (penetration) vào miệng, âm đạo, hay hậu môn

+ 3 yếu tố then chốt : đe dọa hay dùng vũ lực, bằng cớ tiếp xúc tình dục (sexual contact), và thiếu sự đồng ý.
+ Đến 25% những phụ nữ và 7,5% đàn ông báo cáo bị hãm hiếp hay tấn công tình dục trong suốt cuộc đời họ.
+ Ở Hoa Kỳ, khoảng 700000 tấn công tình dục xảy ra mỗi năm, nhưng người ta ước tính rằng chỉ khoảng 15% được khai báo.
+ Những mục đích của điều trị ở phòng cấp cứu :
– nhận diện, chứng minh bằng tài liệu, và điều trị bất cứ thương tổn nào
– Phát hiện và dự phòng bệnh truyền bằng đường sinh dục và thai nghén
+ Thu thập chứng cớ pháp lý
+ Cung cấp hỗ trợ tình cảm và chuyển theo dõi tâm lý học
+ Hướng dẫn trong việc tiến hành thủ tục pháp lý nếu bệnh nhân mong muốn

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu sản phụ khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

La diarrhée

Đăng tải tại Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 622 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ TÂM THẦN HỌC : HƯỚNG ĐẦY HỨA HẸN CỦA VIÊM MÃN TÍNH
Những bệnh tâm thần cũng có một nguồn gốc miễn dịch học, và điều đó làm thay đổi sự điều trị chúng.

RECHERCHE. Tâm thần phân liệt, những rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, bệnh tự kỷ (trouble du spectre autistique :TSA)…Mặc dầu những tiến bộ trong điều trị những bệnh tâm thần, nhưng những kết quả không luôn luôn đúng hẹn. Đó là lý do GS Marion Leboyer mong muốn thay đổi một cách triệt để cách tiếp cận những bệnh tâm thần. Phụ trách khoa tâm thần của những bệnh viện đại học Henri-Mondor (Créteil), giám đốc của Fondation FondaMental, được thành lập bởi Bộ nghiên cứu năm 2007 để hỗ trợ sự nghiên cứu về những bệnh tâm thần, được thưởng bởi Grand prix Inserm 2021, bà mong muốn biến tâm thần học thành một y khoa chính xác (médecine de précision) giống như ung thư học. «Những bệnh lý tâm thần là những bệnh có nguồn gốc sinh học như những bệnh khác», GS Leboyer đã nhấn mạnh như vậy. Vì lẽ ta định đặc điểm những u ung thư để đề nghị những điều trị cực kỳ cá thể hóa, tại sao không làm như vậy đối với những bệnh tâm thần ?
Những bệnh lý tâm thần xảy ra ở những người đã thừa hưởng một di sản di truyền (patrimoine génétique) làm cho họ dễ bị thương tổn hơn với những yếu tố nguy cơ môi trường, và những người đã sớm chịu hay chịu liên tiếp những stress khác nhau : những nhiễm trùng, lối sống đô thị, ngược đãi trẻ em, di dân, dùng thuốc ma túy,…Cơ thể của họ sản xuất quá nhiều phân tử viêm (molécules inflammatoires), nguồn gốc của một viêm mãn tính, cuối cùng lên não.
Nguy cơ này có thể bắt đầu nga y trước khi sinh. «Trong thời kỳ thai nghén, cả một loạt những bằng cớ dịch tễ học cho thấy một mối liên hệ giữa sự kiện có một nhiễm trùng, một bệnh tự miễn dịch, một stress,…và sự phát triển của một rối loạn tâm thần ở trẻ em sau đó», BS Ryad Tamouza, nhà nghiên cứu và chuyên gia miễn dịch học bên cạnh GS Leboyer đã xác nhận như vậy. Những nghiên cứu này phát xuất từ Bắc Âu, bởi vì những fichiers de suivi nationaux (những khám bệnh, những nhập viện) đã được thiết đặt ở đó cách nay 50 năm, điều này đã cho phép những étude rétrospective. «Những virus được nhận diện hiện nay là những virus thông thường : herpès, virus d’Epstein-Barr, cúm,…Không có virus đặc hiệu liên kết với sự phát triển của một bệnh tâm thần. Tiếp theo sau một nhiễm của người mẹ tương lai bởi một trong những virus này và nếu thai nhi có một di sản di truyền làm cho nó ít có khả năng hơn tự bảo vệ mình, điều đó có thể gây nên viêm và nhiên hậu có thể biến đổi sự phát triển thần kinh của nó. Toxoplasmose cũng được công nhận như là yếu tố nguy cơ xuất hiện bệnh tâm thần ở trẻ em vì ký sinh trùng này có một tropisme cérébral », BS Tamouza nói tiếp.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu bệnh nhiễm khuẩn số 23 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CÁC BỆNH LÂY TRUYỀN BẰNG ĐƯỜNG SINH DỤC
( SEXUALLY TRANSMTTED DISEASES )

I. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHUNG
Khi điều trị những bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục ở khoa cấp cứu, ta phải nhớ rằng nhiều nhiễm trùng xảy ra đồng thời, rằng sự tuân thủ điều trị và sự theo dõi thường hạn chế hay không đáng tin cậy, và rằng sự vô sinh và những bệnh dài han khác có thể do sự thiếu điều trị. Vì những lý do này, những bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục cần được điều trị theo những cách sau đây.
1. Ngay cả khi một bệnh lây nhiễm bảng đường sinh dục chỉ được nghi ngờ, nó nên được điều trị với một sự nhấn mạnh vào single-dose observed therapy, nếu có thể
2. Xét nghiệm huyết thanh nên được thực hiện đối với giang mai ở những bệnh nhân với những bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục khác và luôn luôn khi điều trị bất cứ ulcerative STDs
3. Những trắc nghiệm thai nghén nên được thực hiện ở tất cả bệnh nhân nữ với bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục
4. Các bệnh nhân nên được chỉ bảo về phòng ngừa bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục
5. Các bệnh nhân nên được khuyên hãy chuyển đề làm xét nghiệm HIV
6. Các bệnh nhân nên đuoc khuyên rằng những người đối tác phải được điều trị đề phòng ngừa sự tái nhiễm. Nếu các đối tác hiện diện trong khi khám ở phòng cấp cứu, họ được đánh giá và điều trị vào lúc đó.
7. Nhiều tiểu bang có luật đòi hỏi báo cáo những trường hợp STDs cho cơ quan y tế địa phương để theo dõi

II. NHIỄM CHLAMADIA

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu bệnh nhiễm khuẩn, Chuyên đề Y Khoa | 1 bình luận

Cao huyết áp số 6 – BS Nguyễn Văn Thịnh

HYPERTENSIVE CRISIS
Christopher J.Rees, MD & Charles V. Pollack, MD
Emergency Department
Pennsylvania Hospital
Philadelphia

1/ HYPERTENSIVE CRISIS LÀ GÌ ?
Thuật ngữ hypertensive crisis nói chung bao gồm hai chẩn đoán khác nhau, hypertensive emergency và hypertensive urgency. Phân biệt hai chẩn đoán này là quan trọng bởi vì chúng đòi hỏi những cường độ điều trị khác nhau. Nên ghi nhận rằng những thuật ngữ cũ và ít đặc hiệu hơn như “ malignant hypertension ” và “ accelerated hypertension ” không nên sử dụng nữa. The Seventh Report on the Joint National Committee on Prevention, Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure (JNC-7) định nghĩa hypertensive emergency như là “được đặc trưng bởi tăng cao huyết áp nghiêm trọng (hơn j180/120mmHg), với bằng cớ loạn năng cơ quan đích (target organ) sắp xảy ra hoặc diễn ra từ từ. JNC-7 định nghĩa hypertensive urgency như là những tình huống liên kết với tăng cao huyết áp nghiêm trọng nhưng không có loạn năng cơ quan đích diễn ra từ từ. Không có trị số tuyệt đối của huyết áp xác định một hypertensive urgency hay emergency hay phân chia hai hội chứng.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu tâm thần số 14 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHỮNG CẤP CỨU TÂM THẦN : THÁI ĐỘ XỬ TRÍ
(APPROACH TO PSYCHIATRIC EMERGENCIES)

+ Loạn thần (psychosis) là một sự biến đổi của trạng thái tâm thần (mental status), được đặc trưng bội những quá trình suy nghĩ và hành vi bất thường. Bệnh nhân có sự khó khăn trong sự nhận biết thực tại.
– Điều này có thể liên quan một số những triệu chứng, gồm mê sảng (delusion), ảo giác (hallucination), và những kiểu rối loạn về tư tưởng và hành vi
– Bệnh nhân ít hay không có hiểu thấu hay hiểu những hành vi bất thường của họ ;

+ Hoang tưởng (delusion) : một ý tưởng hay niềm tin được duy trì mặc dầu bằng cớ trái lại không thể chối cãi

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu tâm thần, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cao huyết áp số 5 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CƠN CAO HUYẾT ÁP
(HYPERTENSIVE CRISES)

1/ CAO HUYẾT ÁP LÀ GÌ ?
Báo cáo lần thứ 7 của Joint National Committee on Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure (JNC 7) định nghĩa cao huyết áp (hypertension) như là một huyết áp trung bình (mean BP) tăng cao, căn cứ trên 2 (hoặc hơn) trị số huyết áp được đo một cách đúng đắn lúc ngồi, được ghi vào một trong hai ngày khác nhau. Mức độ nghiêm trọng của cao huyết áp được xếp loại theo những trị số tâm thu và tâm trương nghiêm trọng nhất.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu niệu sinh dục số 18 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHỮNG NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIỂU VÀ VIÊM THẬN BỂ THẬN
(URINARY TRACT INFECTIONS AND PYELONEPHRITIS)

I. SINH BỆNH LÝ
+ Thường là nhiễm trùng hướng thượng (ascending infection)
+ Niệu đạo ngắn hơn ở phụ nữ khiến họ dễ bị nhiễm trùng đường tiểu hơn.
+ Gia tăng với hoạt động tình dục, thai nghén, và sử dụng dụng cụ
+ Tắc tiết niệu gia tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu (phì đại tuyến tiền liệt, sỏi thận, hồi lưu bàng quan-niệu quản)
+ Các vi khuẩn
– > 80% Escherichia coli
– 10% Staphylococcus saprophyticus
– Proteus, Klebsiella, Enterobacter cũng thường gặp

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu niệu sinh dục, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Rage de dent

Đăng tải tại Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cao huyết áp số 4 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CƠN CAO HUYẾT ÁP
(HYPERTENSIVE EMERGENCIES)

– Có 60 triệu người ở Hoa Kỳ với Cao huyết áp ; khoảng 1% phát triển hypertensive emergencies
– Thường nhất ảnh hưởng những người đàn ông Mỹ-Phi (African-American) tuổi 40-60
– Cao huyết áp được định nghĩa như là HA > 160/95 mmHg
– Hypertensive emergency hay hypertensive crisis (cấp cứu tuyệt đối) được định nghĩa như HA tăng cao với bằng cớ của loạn năng cấp tính của những cơ quan nội tạng
– Hypertensive urgency (cấp cứu tương đối) được xem như là tăng huyết áp (huyết áp thu tâm > 115 mmHg) với bệnh cơ quan đích (target organ) được biết nhưng không hoạt động.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

La varicelle

Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 34 – BS Nguyễn Văn Thịnh

ĐAU TAI
(EAR PAIN)


1. NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA ĐAU TAI Ở TRẺ NHỎ ?
     Đau tai (otalgia) là một triệu chứng thông thường ở khoa cấp cứu nhi đồng. Mặc dầu chẩn đoán phân biệt của đau tai là dài, nguyên nhân thông thường nhất của đau tai là viêm tai giữa cấp tính (AOM). Viêm tai giữa cấp tính được gây nên bởi một nhiễm cấp tính do vi khuẩn (hay đôi khi do virus), dẫn đến viêm tai giữa, thường liên kết với đau và sốt. Tuổi cao điểm đối với viêm tai giữa cấp tính là 3-16 tháng, nhưng nó có thể xảy ra ở bất cứ lúc nào.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cao huyết áp số 3 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CẤP CỨU CAO HUYẾT ÁP 
(URGENCE HYPERTENSIVE)

Gilbert Pochmalicki

Chef du service de cardiologie
et maladies vasculaires du centre hospitalier de Provins
François Jan 
Cardiologue, professeur de médecine interne
à la faculté de médecine de Créteil (Paris XII)

A/ CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán dựa trên sự cùng hiện diện của nhiều trong số những dấu hiệu sau đây :
        – Huyết áp tâm trương trên 120 mmHg ;
        – Những dấu hiệu thần kinh : đau đầu, nôn, lú lẫn, sững sờ, hôn mê, co giật, rối loạn thị giác, các dấu hiệu khu trú ;
        – Các bất thường của đáy mắt : phù gai mắt, xuất huyết hình dạng tàn lửa (hémorragie en flammèches), dịch xuất tiết (exsudats) ;
        – Các dấu hiệu tim : galop, ran nổ, suy động mạch vành ;
        – Các dấu hiệu thận : thiểu niệu, tăng urê-huyết, creatinin-huyết, tiểu ra máu, vô niệu.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 621 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1. XƠ HÓA PHỔI : NHỮNG PHUƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT HIỆN NAY.
Bệnh này, nghiêm trọng, số nhiều (plurielle) và không được nhận rõ, đang gia tăng. Những thuốc hứa hẹn được trông chờ.
    Hỏi : Trong những bệnh này, cơ chế sinh bệnh là gì ?

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Infections urinaire: Cystite à répétition

Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Infection urinaire: Présentation du cas clinique

Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cao huyết áp số 2 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CƠN CAO HUYẾT ÁP
(CRISE HYPERTENSIVE)

JEAN-LOUIS VINCENT
Chef du Service de Soins Intensifs
Hôpital  Erasme, Bruxelles – Belgique

Sinh lý bệnh lý của cơn cao huyết áp cần đến đồng thời một sự co mạch (gia tăng các sức cản mạch máu) và giảm thể tích máu (hypovolémie).
  Cơn cao huyết áp (crise hypertensive) thường được liên kết với một huyết áp trương tâm > 110 mmHg.
Trước khi điều trị, phải nên nhớ rằng chúng ta không chỉ điều chỉnh các con số bất thường. Cần đảm bảo rằng đó không phải là một hiện tượng tạm thời, có thể thứ phát một yếu tố cần phải được loại bỏ.
        Cần phân biệt grande urgence ( “ emergency ” ) (cấp cứu tuyệt đối)  với urgence (“ urgency”) (cấp cứu tương đối).

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Mycose vaginale

Đăng tải tại Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cao huyết áp số 1 – BS Nguyễn Văn Thịnh

CAO HUYẾT ÁP VÀ CƠN CAO HUYẾT ÁP
(HYPERTENSION AND HYPERTENSIVE CRISES)

1/ ĐỊNH NGHĨA CAO HUYẾT ÁP
– Định nghĩa của các sách giáo khoa là huyết áp cao hơn 160/95 mmHg.
     – Cao huyết áp giới hạn (borderline hypertension) khi huyết áp thu tâm từ 140 đến 159 mmHg và huyết áp trương tâm từ 90 đến 95 mmHg.
     – Giới hạn trên bình thường (upper limit of normal) là 140/90 mmHg.
     – Bệnh nhân có thể có cao huyết áp thu tâm riêng lẻ (isolated systolic hypertension) với huyết áp thu tâm lớn hơn 160mmHg nhưng huyết áp trương tâm bình thường.Tình trạng này thường thấy ở những người già do chứng xơ vữa phát triển dần dần ở các động mạch lớn xảy ra với quá trình lão hóa.
      – Để được gọi là cao huyết áp, một bệnh nhân phải có ít nhất 3 trị số huyết áp cao được đo trong 3 lần khám khác nhau.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Infection urinaire: Cystite aigüe

Đăng tải tại Cấp cứu niệu sinh dục, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu môi trường số 17 – BS Nguyễn Văn Thịnh

BỎNG NHIỆT VÀ BỎNG HÓA HỌC 
(THERMAL AND CHEMICAL BURNS)

A. BỎNG NHIỆT
      Khoảng 1 triệu thương tổn bỏng xảy ra mỗi năm, đưa đến 700.000 thăm khám ở phòng cấp cứu, 45.000 nhập viện, và 4.500 tử vong. Gần 70% những thương tổn bỏng nhi đồng là do nước sôi (scalds). Dến 20% những thương tổn bỏng nhi đồng là do ngược đãi trẻ em (child abuse). Nguy cơ tử vong do một bỏng nặng được liên kết với kích thước bỏng, cao tuổi, thương tổn do hít xảy ra đồng thời, và nữ giới. Tỷ lệ sinh tồn và tiên lượng lâu dài được cải thiện phần lớn là do những tiến bộ y khoa trong điều trị bỏng, sự phát triển những trung tâm bỏng chuyên khoa, và sự xuất hiện điều trị bỏng như là một surgical subspecialty.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu môi trường, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 33 – BS Nguyễn Văn Thịnh

XỬ TRÍ BỎNG Ở TRẺ EM
Dr Gall O & Marsol P.
Département d’Anesthésie-Réanimation. Unité des Brulés,
Hôpital d’Enfants Arnaud Trousseau, Paris

NHẬP ĐỀ

     Bỏng được phân biệt với mọi chấn thương khác ở chỗ nó liên quan một cơ quan sinh tử về mặt nội hằng định (homéostasie) tuần hoàn, nhiệt và giác quan, và đồng thời, phải có những đặc tính mềm dẻo và đàn hồi, cần thiết cho sự vận hành tốt của bộ máy cơ-xương. Điểm sau cùng này là đặc biệt quan trọng ở những trẻ em nhỏ vì những ứng lực về sau được áp đặt bởi sự tăng trưởng. Ngoài bình diện thân thể, da là một cơ quan đặc biệt liên quan về mặt tâm lý, và điều này cũng tạo một nguồn đặc biệt của những khó khăn điều trị. Sau cùng da, hay ít nhất biểu bì, có những khả năng tái sinh ngẫu nhiên rất tuyệt vời, đặc biệt ở những trẻ rất nhỏ. Ý niệm rất mới này đã dẫn đến sự phát triển những cấy tế bào thai nhi (cultures de cellules foetales) để che phủ da. Nó cũng hàm ý những lựa chọn điều trị để tối ưu hóa những khả năng tái sinh ngẫu nhiên.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 620 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. UNG THƯ : CUỘC CÁCH MẠNG TIẾN BƯỚC
      Sự nghiên cứu tiến về một y khoa ngày càng chính xác và cá thể hóa. Nhưng những điều trị cũ vẫn giữ tính hữu ích của chú

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | 1 bình luận

Cấp cứu môi trường số 16 – BS Nguyễn Văn Thịnh

XỬ TRÍ BAN ĐẦU NHỮNG BỆNH NHÂN BỎNG
(PRISE EN CHARGE INITIALE DES BRULES)

I/ ĐẠI CƯƠNG.
Bỏng là sự phá hủy da do chấn thương và đôi khi các mô bên dưới. Một cách cổ điển, bỏng do nhiều nguyên nhân :
– Bỏng nhiệt : do tiếp xúc với một vật thể nóng, do ngọn lửa, do tiếp xúc với các chất dịch, do sức nóng lan tỏa.
       – Bỏng điện : đó là một loại bỏng nhiệt
       – Bỏng hóa học : sự phá hủy mô là do một chất ăn mòn (produit corrosif)  (chất độc tế bào, acide hay bazo). Tiến triển lâm sàng chậm hơn, choáng ít rõ rệt hơn và nguy cơ sinh tử thường được liên kết với độc tính của chất gây bỏng
       – Bỏng cơ học : một vài sự mất da do chợt da (dermabrasion) khi tai nạn công lộ. Kết quả là một sự mất da khá đủ quan trọng để biện minh cho một sự nhập viện trong một trung tâm chuyên khoa.
    Trong bài này chỉ nói bỏng do nhiệt, chiếm 90% các loại bỏng.

    Bỏng nặng tiến triển theo ba giai đoạn :
        – Một giai đoạn khởi đầu (phase initiale) được đánh dấu bởi một sự thoát huyết thanh về phía các mô kẽ, tạo thành phù nề và giảm thể tích với cô đặc máu (hypovolémie avec hémoconcentration). Trên một mức độ nghiêm trọng nào đó hay trong trường hợp liên kết thương tổn, phản ứng viêm vượt quá khung tại chỗ và tạo nên một SIRS (syndrome de réponse inflammatoire systémique). Khi đó đó là những “ bỏng nặng ”, trong đó sự thoát dịch cũng xây ra ở các mô không bị bỏng và trong trường hợp này những tuần hoàn toàn hệ, phổi, tim, tiêu hóa bị biến đổi ; có những rối loạn về cầm máu (hémostase). 
       – Một giai đoạn chuyển hóa (phase métabolique) dài, chỉ ngừng sau khi da được che phủ và cần những équipe, những trang thiết bị và những ky thuật, được hội đủ tốt nhất ở những trung tâm chuyên khoa.
       – Một giai đoạn hóa sẹo (phase cicatricielle) được đánh dấu bởi những vấn đề phục hồi chức năng và ngoại khoa thẩm mỹ.
    Chỉ có giai đoạn ban đầu là liên quan đến chúng ta ; giai đoạn này phải được xử trí một cách đúng đắn bởi mọi kíp cấp cứu hay SMUR. Tuy nhiên bỏng bệnh tại chỗ (brulure maladie locale) không được quên lãng : thay thế nguy cơ sinh tử là một nguy cơ tại chỗ mà sự xử trí tồi có thể được thể hiện bởi những vết sẹo không đáng có và/hoặc những khó khăn chức năng.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu môi trường, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 619 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. COVID-19 : HƯỚNG VỀ LÀN SÓNG DỊCH THỨ MƯỜI
Sự xuất hiện của những biến thể mới ở Hoa Kỳ và Trung quốc, ở đây đại dịch lại nổi lên một cách nghiêm trọng, làm lo ngại Phương Tây. Phải sợ và nghĩ gì ?
     Ít lâu trước kỳ nghỉ Noel, những trường hợp Covid-19 đã giảm dần dần, dấu hiệu rằng đỉnh dịch đã qua. Nhưng hai tin xấu mới đây khiến không vui mừng quá sớm. Một đến từ Hoa Kỳ, một đến từ Trung quốc.

XBB, biến thể Hoa Kỳ

     Ngày 30/12, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC d’Atlanta) đã chính thức loan báo sự tăng lên trong gần 4 tuần của biến thể XBB.1.5, trở nên nguồn, cuối tháng 12, của 40% của tất cả các trường hợp Covid ở Hoa Kỳ và trong số chúng, của 75%  trường hợp trong miền bắc của đất nước. Nó tiến triển nhanh. Biến thể này sinh ra ở New York do sự tái phối hợp của hai biến thể phụ của Omicron BA.2 (BA.2.10.1 và BA.2.75). Không gì cho thấy rằng nó nguy hiểm hơn những biến thể trước. Tuy nhiên, nó chiụ trách nhiệm 40.000 nhập viện mỗi tuần và hơn 5000 nhập viện ICU. Nó sẽ không ngừng lại ở đó. Những người dễ bị thương tổn với biến thể này chủ yếu là những người trên 65 tuổi. XBB.1.5 dường như có thể thoát dễ dàng miễn dịch thể dịch (những kháng thể), có được do những lây nhiễm trước đây hay do những tiêm chủng. Ta chưa biết liệu hai vaccin sau cùng của Moderna và Pfizer BioNTech, chống lại đồng thời Omicron BA.4, Omicron BA.5 và Sars-CoV-2 nguyên thủy, có thể hiệu quả chống lại nó hay không. Cần phải biết nhanh điều đó bởi vì XBB.1.5 đã xuyên qua Đại Tây Dương (để đến châu Âu). Nó đã được nhận diện trong 70 nước, trong đó có Pháp.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cung Chúc Tân Xuân

Đăng tải tại [-] | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 32 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHỮNG VẬT LẠ Ở TRẺ EM
(FOREIGN BODIES IN CHILDREN)

I/ Ở ĐÂU ANH CÓ THỂ TÌM THẤY MỘT VẬT LẠ Ở MỘT ĐỨA TRẺ

     Ở bất cứ nơi đâu. Trong khi chơi và thăm dò bình thường, các trẻ đặt những vật ở bất cứ nơi đâu chúng thấy thích hợp. Những nơi thông thường để các trẻ em đặt những vật lạ gồm miệng (được nuốt hay hít vào), mũi, và tai. Ít thường hơn, những vật được đặt trong âm đạo, trực tràng, và niệu đạo.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 618 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. RUN : CÒN QUÁ NHIỀU BỆNH NHÂN DO DỰ ĐI KHÁM

     Những giải pháp hiện hữu, và dầu ở lứa tuổi nào, một run (tremblement) phải được thăm dò.
     NEUROLOGIE. Là điều không bình thường khi run ở tuổi 20 cũng như ở tuổi 95. « Phải đi khám bởi vì có thể có một căn bệnh ngầm, được gia tăng bởi những cảm xúc, nhưng với những cơ hội điều tri mà ta sẽ lấy làm tiếc khi không nhận được, BS Solène Frismand-Kryloff, thầy thuốc thần kinh ở CHRU de Nancy đã nhấn mạnh như vậy. Và điều này, mặc dầu đó là một run đoạn hồi (tremblement intermittent) : ngay khi nó xuất hiện nhiều lần mỗi ngày, phải hiểu nó phát xuất từ đâu. Mặc dầu một run không ảnh hưởng tiên lượng sinh tồn, nhưng nó có thể phương hại tiên lượng xã hội : vài bệnh nhân ngay cả không thể ăn được. Trong số tất cả các chứng run, run không rõ nguyên nhân (tremblement essentiel) là thường gặp nhất, GS Marc Vérin, thầy thuốc thần kinh ở CHU de Rennes đã nói như vậy. Run không rõ nguyên nhân ảnh hưởng 300.000 đến 600.000 người Pháp so với 200.000 đối với bệnh Parkinson (2/3 trong số những bệnh nhân run). Những nguyên nhân khác là có thể : chấn thương sọ, tai biến mạch máu não, xơ cứng rải rác, dị dạng mạch máu (malformation vasculaire), u não.. nhưng run là triệu chứng gây trở ngại nhất ít thường hơn. »
      Trong điều trị run không rõ nguyên nhân, những betabloquant (propranolol) và vài thuốc chống động kinh (primidone ở hàng đầu) được kê đơn với một sự thành công nào đó. Xem lại danh sách của những điều trị khác có thể hữu ích bởi vì nhiều loại thuốc (để điều trị hen phế quản, trầm cảm…) có thể làm nặng thêm run.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 31 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHỮNG PHÁT BAN NHI ĐỒNG
(PEDIATRIC RASHES)

I/ KỂ 4 BỆNH NHIỄM TRÙNG VỚI NHỮNG BIỂU HIỆN NGOÀI DA CÓ THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG KHỦNG BỐ SINH HỌC.
Bệnh đậu mùa (smallpox), bệnh than (anthrax), botulism, và bệnh dịch hạch (plague) tất cả có thể được sử dụng trong khủng bố sinh học và có những biểu hiện ngoài da. Đậu mùa và bệnh than đứng đầu danh sách của các tác nhân tiềm năng. Những vấn đề về sản xuất và gieo rắc botulism và dịch hạch làm cho những bệnh này đứng thấp hơn trên danh sách.

      Đậu mùa có thời gian tiềm phục từ 10 đến 14 ngày, và bệnh nhân biểu hiện với một bệnh giống cúm, tiếp theo hai ngày sau bởi những sần nhỏ (small papules) phát triển trên mặt và lan đến các chi.
     Bacillus anthracis, một vi khuẩn gram dương tạo bào tử, được tìm thấy trong đất. Sau khi hít nó vào, bệnh nhân có những triệu chứng tương tự với cúm nặng, tiếp theo vài ngày sau bởi khó thở, vã mồ hôi, và choáng. Những triệu chứng ngoài da của bệnh than bắt đầu bằng một sần (papule), trở thành một vết loét (ulcer) vào ngày thứ 2. Những mụn nước nhỏ tháo dịch cấy dương tính và để lại vảy mục đen không đau kéo dài 1-2 tuần.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 617 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. SỰ BÙNG NỔ MỚI CỦA COVID Ở TRUNG QUỐC LÀM LO NGẠI THẾ GIỚI, NHƯNG KHÔNG CHÂU ÂU.
Trong khi nhiều nước áp dụng những biện pháp để giám sát sự đến của người hoa trên lãnh thổ của mình, châu Âu vẫn còn ngần ngừ.

PANDEMIE. Toàn thế giới đang tìm cách chống đỡ đứng trước sự bộc phát trở lại của những cas nhiễm Covid-19 ở Trung quốc và sự đỗ tới ào ạt của những du khách trung quốc kể từ tháng giêng 2023. Ngoại trừ Liên hiệp châu Âu, đã tranh luận hôm thứ năm 29/12 về đáp trả cần thực hiện và cuối cùng đã quyết định…không quyết định gì cả. Trở lại những giờ đầu của dịch bệnh, với cảm giác đã thấy rồi (sensation de déjà vu) phảng phất ở Bruxelles, những thái độ do dự đó và sự thiếu điều hợp đó…
Vậy với sự chấm dứt của chiến lược Zéro Covid ở Bắc Kinh, những người trung quốc sẽ có thể lại bắt đầu du lịch ồ ạt kể từ 8/1/2023. Thế mà tsunami của các cas nhiễm ở Trung quốc làm lo ngại một phần của các nước Phương Tây. Lombardie (Ý), một trong những vùng bị ảnh hưởng nhất ở châu Âu bởi coronavirus năm 2020, đã là nơi đầu tiên áp đặt ngay đầu tuần những xét nghiệm phát hiện đối với tất cả du khách đến từ Trung quốc. Một nửa của các hành khách của một chuyến bay Pékin-Milan hôm 26/12 là dương tính với Covid. Hôm thứ tư 28/12, cùng kết quả trên hai chuyến bay khác. Vậy quyết định đã được mở rộng trên toàn nước Ý, còn bị chấn thương bởi tác động của đại dịch. Biện pháp này là thiết yếu để đảm bảo sự theo dõi và sự phát hiện những biến thể của virus nhằm
CHÂU ÂU ĐỢI THỜI
Cùng tiếng chuông ở Nhật và Hoa Kỳ. Kể từ 5/1/2023, « tất cả các du khách hàng không 2 tuổi và hơn, đến từ Trung quốc, sẽ phải chiu một test PCR không quá 2 ngày trước khi khởi hành », và điều này bất kể quốc tịch hay statut vaccinal của họ, một người hữu trách y tế Hoa Kỳ đã tuyên bố như vậy. Ấn độ, Đài loan và Mã lai cũng sẽ áp đặt những hạn chế đối với những du khách đến từ Trung quốc.
Như vào lúc đầu của đại dịch, Rome lo ngại thấy phần còn lại của châu Âu tỏ ra dễ dãi, đợi thời. Ý chờ đợi và hy vọng rằng Liên hiệp châu Âu sẽ áp đặt những test Covid bắt buộc đối với tất cả những du khách đến từ Trung quốc. Nếu không những biện pháp của Ý sẽ « vô hiệu quả », Thủ tướng Giorgia Meloni đã báo động như vậy. Tuy nhiên điều đó sẽ không xảy ra tức thời. Mặc dầu lời kêu gọi khẩn thiết của Ý, phần còn lại của Liên hiệp châu Âu, sau buổi họp khẩn cấp của ủy ban an toàn y tế châu Âu hôm thứ năm 29/12, không thấy sự cần thiết phải hành động tức thời.
Ở châu Âu, Ý là nước duy nhất lo sợ. Đức, Bồ đào nha, nhưng cũng những nước Bắc âu còn chờ thời, cho rằng một số lượng du khách trung quốc vẫn còn giới hạn và sẽ vẫn là như vậy trong nhiều tuần. Áo, trái lại, nhấn mạnh những lợi ích kinh tế của sự trở lại của các du khách trung quốc ở châu Âu. Tổng thống Pháp đã « yêu cầu chính phủ áp dụng những biện pháp bảo vệ thích ứng cho những người Pháp », và « đảm bảo theo dõi rất chăm chú sự tiến triển của tình hình ở Trung quốc ».
Vào lúc này, « không một hạn chế nào về những di chuyển vào châu Âu đã được quyết định », một phát ngôn viên của Commission européenne đã tóm tắt như vậy. Bruxelles muốn tỏ ra thực tiễn, cho rằng virus đã lưu hành ở châu Âu và rằng sự mở cửa của Trung quốc sẽ không thay dõi tình hình. « Ở Trung quốc, biến thể Omicron BF.7 đang thống trị. Nó đã hiện diện ở châu Âu và đã không trở thành biến thể thống trị. Dĩ nhiên, chúng ta theo dõi tình hình và vẫn cảnh giác », phát ngôn viên đã nói thêm như vậy. Từ tháng 12, 27 nước châu Âu đã quyết định đình chỉ mọi hạn chế ở các biên giới, nhưng một « frein d’urgence » đã được duy trì. Cái hãm này có thể được khởi động nếu cần để đưa vào lại những hạn chế một cách điều hợp.
(LE FIGARO 30/12/2022)

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Chúc mừng năm mới

Đăng tải tại [-] | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 30 – BS Nguyễn Văn Thịnh

THỞ RÍT  (STRIDOR)

I/LIỆT KÊ 4 CHẨN ĐOÁN CHỦ YẾU CẦN XÉT ĐẾN Ở MỘT ĐỨA TRẺ SỐT VỚI THỞ RÍT CẤP TÍNH ?
Bạch hầu thanh quản (croup), viêm nắp thanh quản (epiglottitis), áp xe sau hầu (retropharyngeal bbscess), và viêm khí quản do vi khuẩn (bacterial Tracheitis).

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 29 – BS Nguyễn Văn Thịnh

HO (COUGH)

     Ho là một triệu chứng rất thông thường, thường nhất được gây nên bởi một nhiễm nhẹ của đường hô hấp trên. Tuy nhiên, họ cũng có thể báo hiệu một vấn đề nghiêm trọng, như viêm phổi, hen phế quản, hay suy tim sung huyết. Một sự đánh giá kỹ càng về lâm sàng là cần thiết trước khi cho rằng bệnh nhân chỉ bị một “cảm lạnh”

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 616 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. BỆNH TRẦM CẢM : HƯỚNG VỀ SỰ CÁO CHUNG CỦA SỰ THỐNG TRỊ CỦA CÁC THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM

    Trong một thời gian lâu, được xem như là những viên thuốc mang lại hạnh phúc (pilule du bonheur), những thuốc chống trầm cảm này không hẳn là một thuốc bá bệnh và không có lợi cho tất cả những bệnh nhân.
     PSYCHIATRIE. Florence Foresti, nhà hài hước (humoriste), 45 tuổi và 20 năm được điều trị bởi những thuốc chống trầm cảm. Chính thư thế mà nhà hài hước được ưa thích bởi những người Pháp tự giới thiệu mình trong autofiction Désordres, được phát hành vào lúc này trên Canal+. Trong số những thuốc của ông, chắc là có một inhibiteur de la recapture de la sérotonine (ISRS). Thật vậy đó là lớp những thuốc chống trầm cảm được kê đơn nhất khắp nơi trên thế giới. ISRS gia tăng nồng độ của sérotonine, chất dẫn truyền thần kinh cho phép sự liên lạc giữa các tế bào thần kinh và thường được giới thiệu như hormone du bonheur (kích thích tố của hạnh phúc). Được phát triển trong những năm 1990, với fluoxétine (Prozac) như chef de file, những ISRS đã nhanh chóng thay thế nhưng thuốc chống trầm cảm xưa hơn. Nhưng tính hiệu quả và tính thích đáng của sự kê đơn của các thuốc chống trầm cảm cho đại chúng được đặt câu hỏi một cách đều đặn.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu tâm thần số 13 – BS Nguyễn Văn Thịnh

TRẦM CẢM
(DEPRESSION)

+ Trầm cảm
      – Gần 20% dân số sẽ có một đợt trầm cảm quan trọng (major depression) suốt trong cuộc đời
       – 30% những người trưởng thành trên 60 có những triệu chứng.

  + Tự tử :
– Nguyên nhân thường gặp thứ ba của tử vong ở những người 15-24 tuổi
       – Đến 2/3 những bệnh nhân tự tử đã khám một thầy thuốc trong tháng trước.
 + Những yếu tố nguy cơ nguyên phát đối với rối loạn trầm cảm quan trọn gồm có :
       – Giới tính nữ
       – Tiền sử trầm cảm ở những người bà con thế hệ thứ nhất
       – Những đợt trầm cảm quan trọng trước đây
       – Tiền sử gia đình xa có rối loạn trầm cảm
       – Thiếu sự ủng hộ xã hội
       – Những biến cố cuộc sống gây căng thẳng đáng kể
       – Hiện lạm dụng rượu và/hay chất
       – Đau mãn tính và/hay bệnh mãn tính

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu tâm thần, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 28 – BS Nguyễn Văn Thịnh

ỈA CHẢY Ở TRẺ EM
(DIARRHEA IN CHILDREN)

I/ ỈA CHẢY LÀ GÌ ?

     Ỉa chảy được định nghĩa như là một sự giảm độ đặc (consistency), hay một sự gia tăng tần số của phân. Có những biến thiên rõ rệt về số lượng, thể tích, và độ đặc “ bình thường” của phân giữa các cá thể. Thí dụ những nhũ nhi bú sữa mẹ có thể đi cầu hơn 7 lần mỗi ngày.Theo quy tắc, các nhũ nhi sản xuất phân giữa 5-10g/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Một số lượng lớn hơn hay một tần số lớn hơn 10 lần đi cầu mỗi ngày tạo nên ỉa chảy trong nhóm tuổi này. Vào năm 3 tuổi, xuất lượng phân đạt những trị số chuẩn của người lớn 100g/ngày ; một chế độ ăn uống nhiều sợi gia tăng thể tích. Xuất lượng phân hơn 200 g /ngày đáp ứng định nghĩa về ỉa chảy.
     Ỉa chảy được gây nên bởi một rối loạn về các cơ chế điều hòa sự vận chuyển dịch và chất điện giải của ruột. Viêm không đặc hiệu, sự xâm nhập biểu mô bởi các vi sinh vật, tình trạng quá mức dịch hay đường, và các tác nhân dược học tất cả đều có can dự vào.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 27 – BS Nguyễn Văn Thịnh

MẮT ĐỎ
(RED EYE)

1/ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM LIÊN KẾT NGUY HIỂM CỦA MỘT MẮT ĐỎ ?
– Đau mắt dữ dội
                  – Sợ ánh sáng
                  – Nhìn mờ dai dẳng
                  – Proptosis (mắt lồi)
                  – Phản chiếu ánh sáng giác mạc không đều
                  – Những dấu hiệu trở nặng sau 3 ngày điều trị bằng thuốc
                  – Khuyết hay mờ biểu mô giác mạc
                  – Động tử không đáp ứng với ánh sáng trực tiếp
                  – Ciliary flush
                  – Giảm cử động nhãn cầu
                  – Compromised host : trẻ sơ sinh, bệnh nhân suy giảm miễn dịch, và người mang thấu kính tiếp xúc (contact lens).

2/ NHỮNG TÌNH TRẠNG ĐƯỢC KỂ VÀO TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT ĐỐI VỚI MỘT MẮT ĐỎ Ở MỘT BỆNH NHI ?
– Viêm mí mắt (blepharitis)
                  – Viêm kết mạc (dị ứng, vi khuẩn, virus hay hóa học)
                  – Vật lạ
                  – Chợt giác mạc (corneal abrasion)
                  – Bỏng hóa học
                  – Xuất huyết dưới kết mạc
                  – Những vấn đề liên quan đến thấu kính tiếp xúc (contact lens)
                  – Viêm mắt do bệnh toàn thân : viêm mạch màng nho (uveitis), viêm thượng củng mạc (episcleritis)
                  – Ung thư

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 615 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. CÁC KHOA NHI Ở PHÁP BỊ TRÀN NGẬP BỞI BỆNH VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN.

PEDIATRIE. Bệnh dịch viêm tiểu phế quản, chủ yếu xảy ra ở những nhũ nhi, đạt mức cao nhất của những nhập viện từ hơn 10 năm, Santé publique France (SPF), phụ trách sự theo dõi bệnh này đã loan báo tuần này như vậy. Bệnh viêm tiểu phế quản là nguyên nhân của một nửa của những trường hợp cấp cứu trẻ em dưới hai tuổi vào tuần đầu của tháng 11, và 1/3 những trẻ nhỏ đến vì lý do này đã được nhập viện sau đó. Bệnh dịch mùa của viêm tiểu phế quản, vào lúc này hoành hành ở những nhũ nhi dưới 2 tuổi, đã phát khởi một cuộc khủng hoảng y tế trong cách khoa bệnh viện dành cho sức khỏe của trẻ em. Bộ trưởng y tế đã phát động plan national được dự kiến trong những tình huống y tế đặc biệt (Orsan)
Làm sao giải thích làn sóng làm tràn ngập nhiều khoa nhi bệnh viện, vốn đã bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng của bệnh viện ? « Viêm tiểu phế quản năm nay tức thời nghiêm trọng hơn, GS Isabelle Claudet, trưởng pôle enfants et des urgences pédiatriques ở CHU de Toulouse, đã nhận xét như vậy. Chúng ta hiện có những trẻ em ở khoa hồi sức bằng với lúc đỉnh dịch bình thường, mặc dầu đỉnh này không được dự kiến trước đầu tháng 12, trong vùng của chúng tôi. »

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 26 – BS Nguyễn Văn Thịnh

VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN
(BRONCHIOLITIS)

Viêm tiểu phế quản là bệnh đường hô hấp liên kết với thở khò khè thường gặp nhất ở những trẻ dưới 2 tuổi. Những dịch bệnh trong mùa đông đến đầu xuân thường nhất được gây nên bởi RSV (respiratory syncitial virus). Những nguyên nhân khác là parainfluenza, influenza, và adenovirus, Mycoplasma pneumoniae, Bordetella pertussis, Chlamydia pneumoniae, và Ureaplasma urealyticum.

I. LÂM SÀNG
Trong trường hợp điển hình, có một nhiễm đường hô hấp trên tiền chứng với chảy nước mũi và sổ mũi, được tiếp theo bởi ho, tiếng thở khò khè có thể nghe được, và những mức độ khác nhau của suy kiệt hô hấp (respiratory distress).

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 25 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHỮNG BỆNH PHÁT BAN NHI ĐỒNG
(INFECTIOUS DISEASE ASSOCIATED WITH EXANTHEMS)

I. NHỮNG BIỂU HIỆN LÂM SÀNG.

1. NHỮNG NGOẠI BAN KHÔNG ĐẶC HIỆU DO VIRUS
Những nguyên nhân thông thường nhất cửa các ngoại ban không đặc hiệu do virus là các enterovirus (coxsackievirus, echovirus, enterovirus) và những virus đường hô hấp (adenovirus, rhinovirus, parainfluenza virus, respiratory syncytial virus, influenza virus). Hầu hết các ngoại ban mùa hè là do enterovirus trong khi các virus hô hấp nổi trội trong những tháng lạnh hơn. Ngoại ban không đặc hiệu do virus biểu hiện bằng những dát và sần đỏ (erythematous macules et papules), hóa trắng khi đè, được phân bố khuếch tán trên thân và các chi, đôi khi ở mặt. Những triệu chứng liên kết gồm sốt, đau đầu, những triệu chứng đường hô hấp trên và tiêu hóa, đau cơ, và mệt.
Coxsackie A 4 virus gây sốt và herpangina (những mụn nước và loét 1-5 mm của hầu sau). Một ngoại ban đỏ dát-sần (erythematous maculopapular exanthem) có thể phát triển sau khi bệnh nhân hạ nhiệt. Ở vài bệnh nhân, những thương tổn trở thành mụn nước, lan tràn đến các chi, và thoái biến thành màu nâu nâutrong 1 đến 2 tuần. Sốt và một ban đỏ bắt đầu ở mặt và cổ, rồi lan tràn đến thân và các chi, là đặc điểm của nhiễm virus Coxsackie A 9. Có thể có một
viêm màng não vô trùng (aseptic meningitis) liên kết. Virus Coxsackie A16 gây hand-foot-mouth syndrome, với sốt nhẹ, ăn mất ngon, khó ở, và đau miệng, được tiếp theo sau bởi nổi mụn nước trên bàn tay và/hay bàn chân liên kết với những thương tổn trong miệng giống herpangina. Ban liên kết với virus coxsackie B5thường dát-sần (maculopapular), nhưng đôi khi nó có thể là đốm xuất huyết (petechial). Có thể xảy ra đồng thời nhưng hiếm viêm màng não vô trùng (aseptis meningitis) hay viêm cơ tim.
Echovirus 9 và enterovirus 17 gây một bệnh sốt không đặc hiệu, có thể được liên kết với viêm màng não vô trùng. Ban của echovirus 9 thường dạng ban đào(rubelliform) hay đốm xuất huyết (petechial), trong khi ban liên kết với enterovirus 71 thay đổi từ ban đỏ dát-sần hay mụn nước.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | 1 bình luận

Thời sự y học số 614 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. THAY ĐỔI BỀ NGOÀI : PHẢI CHĂNG ĐÓ LÀ MỘT BỆNH NỘI TIẾT HIẾM ?

Một loạn năng của não thùy hay của các tuyến thượng thận có thể được biểu hiện về phương diện thể xác và khiến phải đi khám bệnh.
MALADIES RARES. Những kích thích tố được tiết nhiều hơn hay ít hơn ? Điều đó có thể đủ để gây nên những thay đổi về thể xác. Nhưng những thay đổi này rất thường được đổ lỗi cho mãn kinh, sự lão hóa…Thế mà, trong thời gian này, bệnh nội tiết tiến triển. Một sự lãng phí thật sự, trong khi chỉ cần lấy ra một tấm ảnh về mình cách nay vài năm và so sánh để nhận thức rằng có một sự lo lắng thật sự.
Thí dụ vấn đề có thể phát xuất từ một khối u của não thùy, hầu như luôn luôn hiền tính, một tuyến nhỏ nằm ở đáy não chỉ huy tất cả những tuyến khác. « đó là trường hợp trong bệnh to cực (acromégalie), liên kết với một sự tiết gia tăng của kích thích tố tăng trưởng (hormone de croissance), GS Thierry Brue, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết và coordinateur của Centre de référence des maladies rares của não thùy, ở Marseille. Đó là hiếm, ta thống kê 3 đến 5 trường hợp mới mỗi triệu dân và mỗi năm, nhưng một sự chậm chẩn đoán có thể làm mất đến 10 năm hy vọng sống. Tuy vậy, một dấu hiệu đơn giản có thể báo động : sự kiện đã phải nới rộng nhiều lần nhẫn cưới của mình và đã thay đổi cỡ giày khi trở thành người lớn.
Trong trường hợp tiết quá mức kích thích tố tăng trưởng ở tuổi trưởng thành trong khi xương không thể lớn nữa, không có chứng khổng lồ (gigantisme), như ở một người trẻ : thế vào đó, những đường nét và da dày lên, với một gương mặt to xù và những ụ trên trán, do đó thường có một thương tổn của hình ảnh của mình. Một cách song hành, những bàn chân và bàn tay gia tăng kích thước, không kể những triệu chứng khác : mồ hôi ban đêm, hội chứng ngừng thở ngắn lúc ngủ, mệt, cao huyết áp, đái đường ở một bệnh nhân trên hai, gia tăng nguy cơ ung thư đại tràng. Sự khám phá thường được thực hiện sau 40 tuổi. « Vấn đề không phải do chẩn đoán, rất đơn giản, vì lẽ một định lượng kích thích tố (IGF1) và, nếu nó tăng quá cao, một IRM của não thùy cho thấy adénome (u) cũng đủ. Vấn đề thật sự, đó là nghĩ đến điều đó ! » GS Brue đã chỉ như vậy.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu nhi khoa số 24 – BS Nguyễn Văn Thịnh

VIÊM TAI GIỮA CẤP TÍNH
(ACUTE OTITIS MEDIA)

Viêm tai giữa cấp tính là một nhiễm trùng mưng mủ của tai giữa, gây nên bởi các vi khuẩn và virus. Viêm tai giữa chịu trách nhiệm đến 1/3 những khám bệnh cấp cứu bởi những trẻ bị bệnh. Vào 1 tuần tuoi, 62% trẻ em sẽ bị một đợt viêm tai giữa cấp tính ; 17% những trẻ này sẽ bị ba đợt ; và 17% khác sẽ bị hơn 6 đợt. Tỷ lệ mắc bệnh là cao nhất trong những tháng mùa đông, vì tần số cao hơn của nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus. Những trẻ với miễn dịch bình thường có thể bị nhiều đợt trong một năm. Những yếu tố nguy cơ đối với viêm tai giữa cấp gồm có điều trị ở trung tâm săn sóc ban ngày, tiếp xúc thứ phát với thuốc lá, sử dụng một núm vú giả, nuôi bằng sữa ngoài, và tiền sử gia đình nhiễm trùng tai.
Nguyên nhân vi khuẩn thông thường nhất được nhận diện là Streptococcus pneumoniae (30-40%), được tiếp theo sau bởi nontypable Haemophilus influenzae (30-40%), Moraxella catarrhalis (10-20%), và Streptococcus pyogenes. Những vi khuẩn ruột gram âm (Escherichia coli, Klebsiella, Proteus, Pseudomonas) và Staphylococcus aureus chịu trách nhiệm khoảng 15% những trường hợp trong những tháng đầu của cuộc sống nhưng cực hiếm sau đó. Bây giờ các virus được xem là những tác nhân gây bệnh thường gặp (đến 50% những trường hợp) ; những tác nhân gây bệnh gồm có parainfluenza, respiratory syncytial virus, influenza, adenovirus, và enterovirus. Nhung vi sinh vật kỵ khí, Mycoplasma pneumoniae và Chlamydia trachomatis không được xem là những tác nhân sinh bệnh đáng kể. Khoảng 1/3 của những cấy tai giữa được nhận thấy vô trùng.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu nhi khoa, Chuyên đề Y Khoa | 1 bình luận

Thời sự y học số 613 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. SỰ CHẤM DỨT ĐẠI DỊCH CỦA COVID Ở TRONG TẦM TAY
Thế giới đã không bao giờ ở trong một vị thế tốt như vậy để chấm dứt đại dịch Covid-19. Đại dịch này đã giết chết hàng triệu người từ cuối năm 2019, BS Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám đốc OMS đã xác nhận như thế hôm thứ tư 14/9.

«Tuần qua, số những trường hợp tử vong mỗi tuần của Covid-19 đã rớt xuống mức thấp nhất kể từ tháng ba 2020. Chúng ta đã không bao giờ ở một tư thế tốt hơn để chấm dứt đại dịch », ông chủ của OMS đã nói như vậy. Tuy nhiên, ông đã cảnh giác : « Chúng ta chưa ở đó, nhưng sự chấm dứt đang ở trong tầm tay…Người nào đó chạy một cuộc đua marathon không dừng lại khi anh ta thoáng thấy đường đến đích. Anh ta chạy nhanh hơn, với tất cả năng lượng còn lại nơi anh ta. Và chúng ta cũng thế…Tất cả chúng ta có thể thấy đường đến, chúng ta sắp thắng nhưng ngừng chạy đó thật sự là lúc nguy hiểm nhất…Nếu chúng ta không nắm lấy cơ hội này, chúng ta sẽ có nguy cơ bị nhiều biến thể hơn, nhiều tử vong hơn, nhiều xáo trộn hơn và nhiều điều không chắc chắn hơn »
Lúc tuyên bố như vậy, ông chủ của OMS đã gởi một thông điệp mặc dầu tích cực và đầy hy vọng, nhưng có thể bị diễn giải sai, trong khi hiện ra chiến dịch tiêm chủng mới. Nếu ta thoáng thấy sự chấm dứt của dịch bệnh, có thật sự hữu ích phải đi chủng một booster thứ hai, ta có thể tự hỏi như vậy.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu bệnh nhiễm khuẩn số 22 – BS Nguyễn Văn Thịnh

NHIỄM HIV VÀ SIDA
– CDC ước tính rằng 900.000 người ở Hoa Kỳ hiện sống với HIV
– Từ khi sử dụng những thuốc kháng retrovirus (antiretroviral drugs) và liệu pháp kháng retrovirus (HAART) rất hiệu quả, tỷ lệ tử vong và nhập viện đã giảm xuống.
– Nhiễm HIV mắc phải do giao hợp, tiếp xúc với máu bị lây nhiễm, truyền chu sinh (perinatal transmission), và đôi khi, qua hiến cơ quan/mô
– HIV là một retrovirus thuộc họ lentivirus, giết chết những tế bào bị nhiễm.
– HIV tấn công một cách chọn lọc những tế bào chủ (host cells) có can dự trong chức năng miễn dịch, chủ yếu những tế bào CD4 T cells.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu bệnh nhiễm khuẩn, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu dạ dày ruột số 57 – BS Nguyễn Văn Thịnh

VIÊM GAN
(HEPATITIS)

– Hầu hết những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với viêm gan như là một kết quả của hoặc là căn nguyên siêu vi trùng hoặc do uống rượu

I. VIÊM GAN SIÊU VI TRÙNG (VIRAL HEPATITIS)
– Viêm gan siêu vi trùng là một nhiễm trùng của gan do nhiễm bởi một trong vài tác nhân siêu vi trùng (A, B, C, D,E và G), đã được nhận diện gây viêm gan
– Đặt một vấn đề y tế cộng đồng đang kể, và hiện chỉ có những vaccin cho viêm gan A và B ;

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu dạ dày ruột, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này

Thời sự y học số 612 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. COVID-19 : VIRUS VẪN TIẾP TỤC LƯU HÀNH
Mặc dầu mùa hè nóng bức, những biến thể mới nhất đã tiếp tục duy trì đại dịch gây nên bởi Sars-CoV-2 của Vũ hán. Có phải sợ một sự trở nặng vào mùa thu ?

Vào cuối tháng tám này, những con số tròn mới nhất của đại dịch được xác lập như sau : 586 triệu người đã bị lây nhiễm trên thế giới, trong đó 6.426 triệu người chết, điều này, theo OMS, là một sự đánh giá thấp bởi vì những trường hợp chết muộn xảy ra xa đợt cấp tính do sự mất bù dần dần của những bệnh nền hay do những di chứng, không được tính đến. Ở Pháp, bilan hiện nay là 33 triệu bị lây nhiễm và 150.000 tử vong. Omicron version BA.5, biến thể thống trị sau cùng (98% các trường hợp được phát hiện) vào mùa hè này đã không tha miễn một nước châu Âu nào mặc dù mùa hè oi bức. Đỉnh của làn sóng này dường như ở phía sau chúng ta, nhưng sự sắp đến của mùa thu, với nhiệt độ thấp hơn làm dễ khả năng truyền của virus, khiến sợ một hoạt động trở lại của BA.5 hay sự lên ngôi của những biến thể mới. BS Bruno Lina, virologue ở CHU de Lyon, thành viên của Conseil scientifique, đã xác nhận rằng đại dịch sẽ tiếp tục và rằng virus còn lâu mới ổn định, bởi vì tiềm năng tiến triển của nó vẫn quan trọng. Không loại trừ sự xuất hiện của một biến thể tối ưu hóa còn lây nhiễm hơn, thậm chí nguy hiểm hơn, thoát miễn dịch mà chúng ta đã có thể thụ đắc cho đến nay nhờ tiêm chủng và/hay kết quả của sự lây nhiễm trực tiếp.

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học | Bình luận về bài viết này

Cấp cứu môi trường số 15 – BS Nguyễn Văn Thịnh

THƯƠNG TỔN BỨC XẠ
(RADIATION INJURY)

– Các chất đồng vị không vững phóng thích lực phóng xạ (radioactivity) dưới dạng hạt (alpha và beta) hay sóng (tia X hay tia gamma)
– Các hạt alpha (nhân helium) có năng lực đi vào kém và có thể bị chặn bởi giấy hay quần áo. Độc tính phát triển khi bị nhiễm nội tại.
– Các hạt beta (electron) có thể đi vào xuyên qua da khoảng 1 cm. Độc tính phát triển do nhiễm ngoại và nội tại
– Các tia X và gamma gây ra sự ion hóa (dẫn đến những gốc tự do rất phản ứng ). Đi vào không khó, dẫn đến mối nguy bức xạ ngoại tại quan trọng
– Rad là đơn vị mô tả bức xạ được hấp thụ. Gy tương đương với 100 rad.
– Thương tổn bức xạ (radiation injury) xảy ra do 3 cơ chế :
+ Sự phát xạ (irradiation) (tiếp cận với bức xạ ion hóa)
+ Sự nhiễm xạ ngoại tại (contamination) (chất phóng xạ phủ một vật)
+ Sự nhiễm xạ nội tại (incorporation) (hít vào, nuốt vào, hay ô nhiễm vết thương)
– Sự phát bức xạ gây thương tổn trực tiếp (tổn hại hay biến dị DNA) hay thương tổn gián tiếp (tạo những loại phản ứng gây tổn hại phân tử)
– Năng lực phóng xạ (radiosensitivity) tỷ lệ thuận với tốc độ sinh sản tế bào và tỷ lệ nghịch với mức độ biệt hóa

Tiếp tục đọc
Đăng tải tại Cấp cứu môi trường, Chuyên đề Y Khoa | Bình luận về bài viết này