Thời sự y học số 364 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ BỆNH VẨY NẾN (PSORIASIS) : NHỮNG ĐIỀU TRỊ NGÀY CÀNG HIỆU QUẢNhững liệu pháp đã xuất hiện gần đây, những liệu pháp khác được dự kiến từ nay đến 2015.
DERMATOLOGIE. Trong trường hợp bệnh vẩy nến (psoriasis), những tế bào của biểu bì (épiderme) đổi mới rất nhanh, do đó xuất hiện những vảy da (squame). Do một phản ứng viêm tại chỗ, bệnh thường liên kết với đỏ da và ngứa. Vì những phần khác có thể nhìn thấy của cơ thể (mặt, da đầu, bàn tay, cùi chỏ…) không được tha miễn, nên cái nhìn của những kẻ khác nhanh chóng trở nên nặng nề, nhất là khi họ nghĩ lầm rằng bệnh bệnh vẩy nến là một bệnh lây nhiễm trong khi không hề là như vậy (đó không phải là một bệnh nhiễm trùng). Và vì bệnh vẩy nến tiến triển thành từng đợt, thường không thể tiên đoán được, mà tần số và cường độ thay đổi trong suốt cuộc đời, nên một cảm giác bất lực lại còn được thêm vào đó.
Vậy có một chênh lệch lớn giữa điều mà bệnh nhân kinh qua (vécu) (thường đau đớn) và ý tưởng của đại chúng về một căn bệnh của đa. Trong trường hợp này, còn quá nhiều người Pháp nghĩ rằng bệnh vẩy nến nhiên hậu không trầm trọng lắm và rằng và crème có thể giải quyết ổn thỏa. Hai định kiến này thật sự làm giật mình các chuyên gia : ” Mặc dầu bệnh vẩy nến không đe dọa tiên lượng sinh tồn, nhưng căn bệnh này rất khó chịu được, đến độ gây nên nhiều trầm cảm và những toan tính tự tử ở các bệnh nhân hơn phần còn lại của dân chúng “, GS Laurent Misery, trưởng khoa bệnh ngoài da thuộc CHU de Brest, đã chứng thực như vậy.
Ngoài ra, đối với BS Nadia Belmatoug (rhumatologue, bệnh viện Beaujon), ” trong số những bệnh nhân bị bệnh vẩy nến, tối thiểu 5% và đến 30% sẽ phát triển những thương tổn khớp, nếu chúng không được điều trị kịp thời, sẽ không đảo ngược được và đôi khi gây phế tật “. Còn GS Christophe Bedane, trưởng khoa bệnh ngoài da thuộc CHU de Limoges, định rõ : ” Chúng ta không có luận cứ để biết một bệnh vẩy nến mức độ trung bình có thể trở nên trầm trọng với thời gian không, những quả đúng là nếu nó đã lan rộng trước tuổi 20, thì có nguy cơ hơn rằng bệnh vẩy nến này tiến triển theo một cách nghiêm trọng. Thế mà để một bệnh vẩy nến làm biến thái chất lượng sống của người bệnh là điều không thể hiểu hôm nay nhất là khi đã có những tiến bộ rất lớn trong lãnh vực điều trị để cải thiện nhiều chất lượng sống bằng cách làm giảm một cách đáng kể những cơn bộc phát và cường độ của chúng.”
Nhưng để mỗi người bệnh có thể nhận được những tiến bộ này, người bệnh còn cần được đả thông rõ về sự hiện hữu của những điều trị này.
Trong số 3 triệu người bệnh được thống kê, không hẳn tất cả đều cần điều trị mũi nhọn (traitement de pointe). Trong những thể ít lan rộng hơn, ít gây khó chịu hơn, những điều trị tại chỗ có thể đủ : chúng dựa trên những crème dermocorticoide, những dẫn xuất của vitmine D và acide salicylique chống lại những vẩy nến (squame) cũng như cũng những chúng dựa trên những crème dermocorticoide, những dẫn xuất của vitmine D và acide salicylique chống lại những vẩy nến (squame) cũng (emollient) để làm mềm da. Tuy nhiên, bị gò bó phải dùng thuốc, chủ yếu nếu những vùng cần phải điều trị là nhiều và lan rộng, một số bệnh nhân cuối cùng bỏ điều trị.
” Khi những điều trị tại chỗ không còn đủ nữa, những buổi puvathérapie à spectre étroit có thể được đề nghị, với những kết quả tốt (vả lại mặt trời cải thiện bệnh vẩy nến). Vì số những buổi và những liều lượng được phát ra có thể tính được, nên không có nguy cơ bị ung thư da “, GS Bedane đã trấn an như vậy. Nếu cần, một điều trị với một dẫn xuất của vitamine A có thể được liên kết (acide acitrétine, một loại thuốc được sử dụng trong những rối loạn của quá trình sừng hóa (kératinisation), những loại thuốc này bị chính thức chống chỉ định trong trường hợp mang thai và gây nên khô da : hai lý lẽ khiến thuốc này không còn được kê đơn nhiều nữa.
Những điều trị tổng quát khác như méthotrexate hay ciclosporine, trong trường hợp xảy ra nhiều cơn hay đề kháng, được đề nghị bởi các thầy thuốc chuyên khoa bệnh viện : ” Méthotrexate được sử dụng từ hơn 40 năm trong vài ung thư, nhưng với những liều lượng 10 lần mạnh hơn được chủ trương trong bệnh vẩy nến. Còn về ciclosporine (cần theo dõi chức năng thận), ban đầu trong những năm 1980 được kê đơn để tránh những thải bỏ ghép (rejets de greffe), đó cũng là một loại thuốc mà ta có một thời gian nhìn lại rất tốt và ngay cả có thể được cho trong trường hợp mang thai. Trong những năm qua, những điều trị toàn thân khác mới đây hơn (biothérapie) được thêm vào danh sách : những anti-TNF alpha và những anticorps humains anti IL12, anti IL23 và chẳng bao lâu anti IL17. Đó là những chất ức chế rất mạnh sự tiết những chất viêm có liên quan trong bệnh vẩy nến. Hai liệu pháp nhắm đích khác tác dụng ở những mức khác nhau của viêm còn được dự kiến từ nay đến 2015 (antiphosphodiestérase hay anti Jak). Do phí tổn cao và do sự sử dụng chúng còn mới đây, nên những điều trị mũi nhọn này hiện được dành cho những trường hợp thất bại của tất cả những điều trị khác “, BS Misery đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 17/11/2014)

2/ BỆNH VẨY NẾN : “TÔI ĐÃ ĐÁNH MẤT 13 NĂM CỦA ĐỜI TÔI”
Từ khi anh ta biết được sự hiện hữu của những điều trị bệnh vẩy nến khác với những crème, cuộc đời của Enzo Simon (Saint-Romain-de-Colbosc, Seine Maritime) đã thay đổi. Điều nuối tiếc duy nhất của anh : đã không biết điều đó sớm hơn.
” Tôi được 12 hay 13 tuổi khi một mảng (plaque) đầu tiên xuất hiện trên bụng tôi. Bố mẹ tôi đã mang tôi đến thầy thuốc chuyên khoa bệnh ngoài da. Ông này đã không có một chút khó khăn khăn nào khi chẩn đoán đó là bệnh vẩy nến (psoriasis). Tôi được điều trị với một toa thuốc pommade. Mặc dầu plaque biến đi với crème, nhưng rồi năm này qua năm khác, những mảng khác tái xuất hiện đó đây : lại trên bụng, nhưng cũng ở đùi, các mắc cá chân, nách, mông, trán, cánh tay…
Điều gây khó chịu cho tôi, đó không chỉ là sự kiện rang điều đó có thể được mọi người nhìn thấy, mà cũng là triệu chứng ngứa, chảy máu, những vết chợt và như thế đau thường trực trong những đợt bộc phát. Ngoài ra, bôi kem, điều đó mất thời gian (15-20 phút mỗi chiều) và vì đó là mỡ, nên rất là khó chịu bởi vì mỡ dính khắp nơi trên quần áo, trong các khăn trải giường. Điều đó lại càng nặng nề khi tôi phải qua một kỳ thi vào ngạch công chức bởi vì với stress, tôi thật sự bị nhiều đợt bộc phát.Và trong trường hợp này ta không thể nói rằng người ta tỏ ra tế nhị ! Chỉ cần nhìn đôi mắt của họ cũng đủ rõ. Tất cả những nhận xét làm mất lòng, nhưng đôi khi chúng cho thấy sự không hay biết của người ta.
Mặc dầu bệnh vẩy nến đã không bao giờ ngăn cản tôi chạy hay tập luyện cơ, nhưng chúng làm tôi khó chịu khi đi piscine hay cởi quần áo trên bãi biển. Vì tôi có một cá tính nào đó và vì tôi đã có một người bạn nhỏ trước khi bị những plaque trên khắp thân thể, nên điều đó đã giúp tôi có một cuộc sống xã hội và tình yêu bình thường. Và tôi đã không bao giờ ngừng giải thích rằng đó là một căn bệnh của da không lây nhiễm, để không còn bị điều trị như người bị hủi nữa. Nhưng sự tiếp xúc ban đầu với căn bệnh này thật khó !
Cuối cùng, chỉnh một thầy thuốc chuyên về lao động, không hiểu tại sao tôi tự điều trị chỉ với những pommade từ 13 năm qua, đã hướng tôi đến một thầy thuốc bệnh ngoài da bệnh viện. Rất đổi ngạc nhiên, tôi đã biết được rằng hiện hữu những điều trị khác hiệu quả hơn nhiều. Tôi đã bắt đầu một điều trị toàn thân, rất có hiệu quả, nhưng tôi phải dừng lại vì bắt đầu một nhiễm trùng.Sau khi biến chứng nhiễm trùng này được điều trị lành, tôi lại tiếp tục một điều trị khác và tôi phải nói rằng cuộc đời tôi được biến đổi. Nếu tôi làm chứng hôm nay, đó là bởi vì để không còn một bệnh nhân nào nữa không hay biết rằng có những điều trị có hiệu quả. Mọi người cần phải biết ! ”
(LE FIGARO 17/11/2014)

3/ BỆNH VẨY NẾN : MỘT BỆNH NGOÀI DA CHE DẤU MỘT BỆNH KHÁC.
Khi một người bị bệnh vẩy nến (psoriasis) đến khám, một trong những lời khuyên dành cho bệnh nhân này, đó là có một vệ sinh đời sống tốt : không thuốc lá, không hay ít uống rượu, một trọng lượng bình thường và một hoạt động vật lý đều đặn. ” Không phải để làm buồn chán bệnh nhân, nhưng bởi vì người ta đã chứng mình rằng bệnh vẩy nến kèm theo một nguy cơ tim mạch gia tăng”, GS Laurent Misery (dermatologue, CHU Brest) đã nhấn mạnh như vậy.
Lời khuyến nghị khác là đi khám một thầy thuốc chuyên khoa thấp khớp trong trường hợp bệnh vẩy nến da (psoriasis cutané) kèm theo đau, mà không được quy tất cả cho vấn đề đã mà thôi. ” Thật vậy, một thương tổn khớp hay cơ có thể xảy ra và nếu là như vậy, điều thật sự thiết yếu là đừng để nó tiến triển thành những thương tổn không thể đảo ngược được. Đau ở các điểm bám của dây gân cũng có thể được cảm thấy và khiến ph ả i báo động”, BS Nadia Belmatoug (thầy thuốc chuyên khoa thấp khớp, hôpital Beaujon, Paris) đã nhấn mạnh như vậy.
Đôi khi, chỉ có một, hai hay ba khớp bị thương tổn và một cách không đối xứng (thí dụ, một cổ tay ở phía phải, một cùi chõ ở phía phải và một đầu gối ở phía trái). Lại còn đôi khi, đó là một đốt ngón tay tận cùng bị sưng, đau và móng tay không bình thường (lamellé hay có dạng dé à coudre). Lại còn đôi khi, có một ngón chân bị biến dạng và bị sưng như một xúc xích nhỏ. Sau cùng có những dạng hiếm xảy ra nhưng rất nghiêm trọng. ” Không có sự tương quan giua thuong tổn da, có thể ở mức trung bình, và thương tổn khớp, có thể nặng hơn và ngược lại. Ngược lại, điều chắc chắn, đó là nếu không được điều trị, khớp dần dần bị phá hủy và khi không còn sụn nữa, giải pháp khả dĩ duy nhất vẫn là đặt khớp giả (prothèse), với điều kiện khớp chịu được. Thật vậy, ta không thể làm tái sinh một sụn đã bị phá hủy bởi bệnh”; BS Belmatoug đã nói như vậy.
Để tiệt trừ sự xói mòn khớp (érosion articulaire) trước khi quá muộn, thầy thuốc chuyên khoa phong thấp có nhiều điều trị để lựa chọn, nói chung cũng hiệu quả lên thể da : những thuốc kháng viêm không stéroide hay méthotrexate trong trường hợp thương tổn các khớp ngoại biên, anti-TNF alpha trong trường hợp thương tổn cột sống. Chỉ có Salazopyrine, một điều trị chung với viêm đa khớp dạng thấp, là không có hiệu quả lên dạng da. Vào lúc xảy ra một cơn bộc phát viêm, sự hỗ trợ của ergothérapeute cũng có thể hữu ích. Mục tiêu : học thực hiện những động tác của cuộc sống hàng ngày, mà không quá sử dụng khớp đau, thời gian cần thiết để phản ứng viêm thuyên giảm.
(LE FIGARO 17/11/2014)

4/ BỆNH VẨY NẾN : ĐIỀU TRỊ NGUY HIỂM ĐỐI VỚI NHỮNG PHỤ NỮ CÓ THAI
Một công trình nghiên cứu chỉ rõ những sai lầm nghiêm trọng khi kê đơn acitrétine (Neotigason), một thuốc chống bệnh vẩy nến, có thể gây những dị dạng của thai nhi.
MEDICAMENT. Ý kiến của ANSM (Agence nationale de santé et du médicament) đã gần như không được chú ý. Tuy vậy điều này đặc biệt quan trọng. Thật vậy cơ quan y tế và dược phẩm quốc gia nhắc lại rằng cần nhất thiết tôn trọng những khuyến nghị trước khi kê đơn một loại thuốc.
Trong trường hợp này đó là acitrétine, được bán dưới tên Soriatane. Rétinoide này (dẫn xuất của vitamine A) được sử dụng để điều trị những thể nặng của bệnh vẩy nến. Thế mà loại thuốc này là một chất sinh quái thai mạnh (un puissant tératogène), ANSM đã nhắc lại như vậy. Nói một cách khác, nó có thể gây nên những dị dạng thai nhi nghiêm trọng. Vậy cần phải đảm bảo trước, trong khi và sau điều trị rằng người phụ nữ không có thai hay sẽ không là như vậy.
Thế mà, công trình nghiên cứu được thực hiện đồng thời bởi cơ quan dược phẩm (agence du médicament) và bởi CNAMTS (caisse nationale d’assurance-maladie des travailleurs salariés) ở 7663 phụ nữ, tuổi từ 15 đến 49, từ năm 2007 đến 2012 và ở những phụ nữ này người ta vừa cho acitrétine, cho thấy rằng những điều thận trọng cơ bản đã không được tôn trọng.Trên 357 thai nghén xảy ra trong khi tiến hành công trình nghiên cứu, gần 40% đã bị gián đoạn (interruption volontaire, médicale, hay sẩy thai tự nhiên). Những hậu quả có thể bi thảm, mặc dầu tất cả các trường hợp có thể quy cho Soriatane.
Ngoài những trắc nghiệm thai nghén được thực hiện rất đều đặn, điều kiện đầu tiên trước khi điều trị, ANSM yêu cầu rằng các phụ nữ cần sử dụng ” một biện pháp ngừa thai hiệu quả trong suốt thời gian điều trị “, nhưng cũng trong hai năm sau khi ngừng điều trị “. Thật vậy, nguy cơ là trong suốt thời kỳ này, người phụ nữ trẻ tích trữ trong mỡ những yếu tố gây quái thai mà sự tạo thành ” được làm dễ bởi sự tiêu thụ rượu” trong khi dùng thuốc.
” Lúc bắt đầu điều trị, sự thực hiện một trắc nghiệm thai nghén trong 3 ngày trước khi cho thuốc chỉ đã được tôn trọng trong 11% các trường hợp “, tuy vậy các tác giả của báo cáo lấy làm lo ngại. Trong thời gian điều trị, gần hai phụ nữ trên ba đã không có một trắc nghiệm thai nghén nào và hai năm sau khi chấm dứt điều trị điều đó xảy ra ở 4 phụ nữ trên 5. Sau cùng, điều không thể tưởng nhất là ” 53 phụ nữ đã được kê đơn thuốc trong khi họ đã có thai “.
” Đó là một tình hình rất phiền toái “, GS Olivier Chosidow, chủ tịch của Société française de dermatologie, đã đánh giá như vậy. Thật vậy, nghề nghiệp của ông ở tuyến đầu : trong hơn một nửa các trường hợp (58%), acitrétine đã được kê đơn bởi một thầy thuốc chuyên khoa ung thư hành nghề tự do, trong 27% các trường hợp bởi một thầy thuốc toàn khoa và trong 14% những trường hợp bởi một thầy thuốc của một cơ sở điều trị.
Tuy vậy Olivier Chosidow nói : ” Công trình nghiên cứu không cho phép biết có phải chính thầy thuốc đã không kê đơn trắc nghiệm thai nghén hay chính bệnh nhân đã xét thấy không cần thiết phải thực hiện trắc nghiệm này “, ông đã nhấn mạnh như vậy. Ta cũng không biết là có phải vài bệnh nhân đã không nhận được một điều trị ngừa thai vào lúc khám bệnh psoriasis của họ hay không “, vị thầy thuốc nói thêm như vậy, mặc dầu biết rằng, theo công trình nghiên cứu, tuổi trung bình của các phụ nữ được khảo sát là 39,5. Nhưng Olivier Chosidow công nhận : những vấn đề này không hủy bỏ chút nào sự khẩn trương cần huy động các thầy thuốc, các dược sĩ và các bệnh nhân.
Bác sĩ Elisabeth Elefant, điều khiển centre de référence sur les agents tératogènes (Crat) ở Paris, nhấn mạnh những thông tin cần đưa ra đối với hai năm trong đó không được mang thai.” Sự cấm đoán này liên kết trực tiếp với sử dụng rượu trong khi điều trị, bà đã giải thích như vậy, kể cả khi rượu hiện diện trong những médecine alternative thuộc loại phytothérapie hay aromathérapie.” Ngược lại, ” những tác dụng gây quái thai biến mất hai tháng sau khi chấm dứt điều trị nếu người phụ nữ trẻ đã không uống một giọt rượu nào”.
Dẫu sao ANSM dự kiến tăng cường những kiểm soát. Chỉ những thầy thuốc chuyên về bệnh ngoài da mới có thể thực hiện sự kê đơn đầu tiên. Trong khung cảnh của một chương trình phòng ngừa thai nghén, sự kê đơn này cũng thiết đặt một ” thư từ liên lạc” giữa những thầy thuốc bệnh ngoài da và những thầy thuốc khác phụ trách về ngừa thai. Sau cùng ” người dược sĩ không thể cấp thuốc nếu kết quả âm tính của trắc nghiệm thai nghén không được ghi trong sổ theo dõi của bệnh nhân “. Những hạn chế dường như cần thiết để tránh những thảm cảnh xảy ra.
(LE FIGARO 6/3/2014)

5/ TẠI SAO VIÊM MÀNG NÃO NẶNG KHÓ CHẨN ĐOÁN
Năm 2013, đã có 585 trường hợp nhiễm trùng xâm nhập do màng nào cầu trùng (méningocoque) được thống kê ở Pháp. 50 người đã chết vì viêm màng não này và 49 người có những di chứng sớm (séquelles précoces).
MEDECINE ” Sinh ra đời với mùa xuân, chết với những hoa hồng. ” Nếu Emilie đặc biệt thích câu thơ đầu của bài thơ của Lamartine, mà cô dùng làm đầu đề cho câu chuyện của riêng mình “, đó là vì cô suýt chết vì một viêm màng não, vào cuối mùa hè. ” Mặc dầu tôi đã bị lấy đi chỉ một đoạn nhỏ ngón tay, cô ta đã nói như vậy, nhưng khi tôi nhìn những di chứng tôi tự bảo : tại sao tôi còn những cẳng chân ? Tại sao tôi còn có cái đầu của tôi ?”
Bởi vì, hôm nay, Emilie Sougey biết rõ về bệnh viêm màng não, từ những dấu hiệu đầu tiên đến kết cục đôi khi bi thảm (năm qua 50 trường hợp tử vong ở Pháp), với những di chứng đôi khi rất nặng nề. Cô biết rằng nhiễm trùng có thể lan tràn khắp thân thể và cần cắt cụt các ngón tay, bàn tay, bàn chân, cẳng chân. Cô biết tất cả điều đó. Nhưng cô đã không biết gì hết cái ngày trước khi tựu trường của lớp cuối của trường trung học Notre-Dame-des-Victoires, ở Voiron, là nơi cô đă bắt đầu cảm thấy khó ở, bị một cơn đau đầu khủng khiếp. Bố mẹ cô cũng đă không biết gì.
” Giá gì mà tôi biết…” Câu nói khủng khiếp đó chạy qua đầu của tất cả những người tình nguyện của Méningite France Asociation Audrey et Petit Ange. Cơ quan này tổ chức hôm 7/10/2014 vừa qua một colloque về những di chứng của bệnh viêm màng não, ở Viện Pasteur. ” Trong vòng dưới 22 giờ vào tháng giêng 2013, tôi đã đánh mất đứa con gái tôi vì một viêm màng não do màng não cầu trùng B (méningite à méningocoque). Nó chỉ mới 4 tuổi “, Patricia Merhan-Sorel, chủ tịch của Petit Ange, chủ trương một thông tin tốt hơn cho các bố mẹ. Bởi vì trong một dạng được gọi là purpura fulminans, tất cả có thể biến chuyển cực kỳ nhanh.
Thế mà ngay cả một thầy thuốc cũng có thể bị bất ngờ và quy một sốt nặng cho một nhiễm trung bình thường. ” Có những trường hợp các trẻ em bị gởi về nhà sau khi đã đến khám một thầy thuốc hay sau khi đã đến bệnh viện “, bà Merhan-Sorel đã lấy làm tiếc như vậy. Thật là vô ích khi quở trách người thầy thuốc, ông ta thấy nhiều trường hợp nhiễm trùng không trầm trọng hơn những trường hợp viêm màng não cực kỳ nặng. ” Hãy tin vào bản năng của người mẹ của anh”, bà đã thì thầm như vậy. Đừng do dự gọi 15 để đánh giá tình hình. Thậm chí gọi lại nếu như tiến triển không thuận lợi.
Bởi vì chẩn đoán vẫn khó và tam chứng cổ điển (triade classique) gồm những dấu hiệu ” sốt, cứng cổ và biến đổi tri giác ” thay đổi. Thí dụ, dấu hiệu ” cứng cổ ” không luôn luôn hiện diện, đặc biệt ở những nhũ nhi. Ngược lại sốt và đau đầu thường gặp hơn, boi vì áp lực não gia tăng và nhiễm trùng lan ra toàn thể, đó là một nhiễm trùng huyết (septicémie). Sự khuếch tán của những màng não cầu trùng (cũng có những viêm màng não do các virus nhưng trên nguyên tắc chúng ít nguy hiểm hơn) trong khắp thân thể giải thích nguy cơ thương tổn những huyết quả nhỏ làm xuất hiện những vết đỏ hay tím, như những mũi chích của kim băng (piqure d’épingle) trên da : Purpura fulminans.
Những thương tổn này là dấu hiệu cấp cứu và tăng cường sự cần thiết không được mất thời gian. Đó là một vấn đề giờ. ” Ta luôn luôn gợi lên những triệu chứng đau đầu nhưng trước khi đến trong những màng não, đó là một nhiễm trùng máu, BS Muhamed-Kheir Taha, trưởng Centre national de référence des méningocoques ở Viện Pasteur de Paris, đã giải thích như vậy.
” Ngay cả khi chẩn đoán sớm và điều trị thích ứng, tỷ lệ tử vong vẫn cao “, Catherine Olivier, giáo sư nhi khoa thuộc đại học Paris VII đã giải thích như vậy. Năm 2013, đã có 585 trường hợp nhiễm trùng xâm nhập bởi màng não cầu trùng được thống kê ở Pháp, trong đó 14 trường hợp ở những tỉnh hải ngoại. Đỉnh cao mùa (pic saisonnier) đã xảy ra vào tháng hai (71 trường hợp) và tỷ lệ thấp nhất vào tháng chín (31 trường hợp). Một đến hai trường hợp mỗi ngày ở Pháp, điều đó là ít, do đó tầm quan trọng phải cảnh giác đối với các trẻ con. Trên 585 những bệnh nhân được liệt kê năm qua, 50 bị chết và 49 có những di chứng sớm. Những lứa tuổi bị ảnh hưởng nhất, Viện theo dõi y tế đã định rõ như vậy, là những nhũ nhi dưới 1 tuổi (82 trường hợp), những thiếu niên từ 17-19 tuổi (71 trường hợp) và những người trên 90 tuổi (13 trường hợp).
Điều trị viêm màng não dựa trên điều trị kháng sinh cấp cứu nhưng cũng có những vaccin phòng ngừa chống lại những giống gốc thường gặp nhất. Năm qua ở Pháp, trên 561 trường hợp nhiễm trùng xâm nhập bởi màng não cầu trùng mà sérotype đã được biết, thì chủ yếu đó là màng não cầu trùng loại B (326 trường hợp, hoặc 58%) và C (146 trường hợp, 26%). Tiêm chủng chống lại màng não cầu trùng loại C từ nay được khuyến nghị ở tất cả các nhũ nhi 12 tháng, với một dose de rattrapage cho đến tròn 24 tuổi. Ngược lại, hiện nay sự tiêm chủng chống lại màng não cầu trùng loại B không được khuyến nghị cho tất cả và không được bồi hoàn bởi bảo hiểm y tế mặc dầu phí tổn cao, điều này gây tức giận ở các thầy thuốc nhi khoa. Tiêm chủng chống màng nào cầu trùng B được khuyến nghị ở những người có nguy cơ cao bị nhiễm trùng, nhất là trong những trường hợp bị thiếu sót miễn dịch (déficit immunologique).
(LE FIGARO 27/10/2014)

6/ MỘT KHÁNG SINH MỚI ĐẦY HỨA HẸN
Phương pháp cải tiến được sử dụng bởi những nhà nghiên cứu cho phép đẩy nhanh sự khám phá nhiều thuốc mới.
BACTERIOLOGIE. Từ nhiều năm nay tình trạng báo động diễn ra : trước sự tiến triển của những vi khuẩn đề kháng với các kháng sinh hiện nay, chúng ta phải chờ đợi một cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu. Nếu không huy động thế giới, chúng ta có thể lại bị bất lực đứng trước những căn bệnh từng rất nghiêm trọng trước khi pénicilline được lưu hành trong những năm 1940.
Sự ý thức mối hiểm nguy đã khiến vài nước cố hợp lý hóa sự sử dụng những thuốc hiện nay, để gìn giữ tối đa tính hiệu quả của chúng. Nhưng các chuyên gia nhắc lại một cách đều đặn sự khẩn cấp phải khám phá những loại thuốc mới, đồng thời phàn nàn rằng nghiên cứu dược không đầu tư nhiều hơn trong lãnh vực này, vì không có khả năng sinh lợi. Trong bối cảnh này, những công trình được tiến hành bởi kíp của Losee Ling và Kim Lewis (Northeast University, Boston), được công bố trong tạp chí uy tín Nature, có hai lợi ích đối với những tác nhân của lãnh vực. Một mặt, các nhà nghiên cứu đã nhận diện một kháng sinh mới, teixobactine, hiệu quả chống lại một sous-catégorie vi khuẩn, được gọi là Gram dương. Teixobactine tác dụng bằng cách ngăn cản sự tổng hợp của thành tế bào của các vi khuẩn mà nó tấn công, điều này làm vỡ (explosion) các vi khuẩn. ” Teixobactine rất có hiệu quả chống lại Clostridium difficile và Bacillus anthracis (…) và có một khả năng diệt khuẩn tuyệt vời chống lại hoạt động của tụ cầu khuẩn vàng”, các tác giả đã viết như vậy. Con chủ bài khác của kháng sinh mới này : phải cần nhiều thời gian (hơn 30 năm) để thấy xuất hiện những đề kháng với tác dụng của nó, các nhà nghiên cứu đã đánh giá như vậy.
Được trắc nghiệm trên chuột, teixobactine còn phải có những kết quả được xác nhận ở người, nhất là để kiểm tra rằng thuốc không độc đối với cơ thể người. Vậy phải nhiều năm trôi qua trước khi thương mãi hóa.
Nhưng điều lại còn làm quan tâm hơn những chuyên gia, đó là phương pháp được hiệu chính bởi các nhà khoa học Hoa Kỳ để khai thác những vi khuẩn này. Thật vậy, BS Laurent Dortet, giám đốc Centre national de référence associé sur la résistance aux antibiotiques (bệnh viện Bicetre, Val-de-Marne), ” sự khám phá những kháng sinh chống lại những vì khuẩn Gram dương (những thuốc mới đây đã được thương mãi hóa : daptomycine, linézolide) ít khẩn cấp hơn sự khám phá chống lại những vi khuẩn gram âm (những vi khuẩn ruột như E.coli, Pseudomonas, Acinetobacter…)”. Thế mà Ling và Lewis đã phát minh một thiết bị cấy những vi khuẩn, mở ra những triễn vọng quan trọng cho những nghiên cứu sắp đến, dầu loại những vi khuẩn là gì.
Những kháng sinh mà chúng ta sử dụng từ lúc khám phá chúng trong những năm 1940, phần lớn phát xuất từ những phân tử có trong thiên nhiên : chúng được sản xuất bởi những vi khuẩn trong đất. Nhưng, cho đến nay, các nhà khoa học bị giới hạn trong sự thăm dò chúng : các nhà khoa học chỉ có thể khai thác những vi khuẩn mà họ có thể cấy được theo yêu cầu. Hoặc 1% của toàn thể microbiote của đất.
Ling và Lewis đã tuởng tượng iChip, một loại plaque dài 7 cm, được trang bị bởi những ngăn nhỏ xíu dành cho các vi khuẩn, được làm đầy bởi một môi trường cấy đặc hiệu. Sự ủ (mise en incubation) thiết bị trong đất cho phép các vi sinh vật phát triển nhờ lợi dụng những chất dinh dưỡng không thể sản xuất trong phòng thí nghiệm. Sự có được một lượng đủ các vi khuẩn cho phép trắc nghiệm phản ứng của nó đối với vi khuẩn cần loại bỏ.
Đối với BS Laurent Dortet, kỹ thuật này ” quả thật rất đáng lưu ý “. ” Nó có thể cho phép gia tốc 99% sự khai thác những vi khuẩn còn lại “, ông ta đã giải thích như vậy. Một enjeu quan trọng khi ta biết rằng đã phải duyệt xét 10.000 vi khuẩn khác nhau để khám phá vi khuẩn chế tạo teixobactine.” Những nghiên cứu này mang lại hy vọng, với điều kiện kỹ thuật iChip được sử dụng với quy mô lớn bởi công nghiệp dược phẩm. Và để được điều đó, phải có một ý chí chính trị thực sự trên thế giới “, BS Dortet đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 14/1/2015)

7/ ALZHEIMER : NHỮNG THỬ NGHIỆM DƯƠNG TÍNH BẰNG KÍCH THÍCH QUA SỌ.
GS Gilles Kemoun, giáo sư y khoa vật lý và phục hồi chức năng, thầy thuốc thực hành bệnh viện, nhà nghiên cứu ở laboratoire Move của đại học Poitiers, trình bày những kết quả của sự liên kết của một kích thích qua sọ (stimulation transcranienne), phối hợp với những bài tập nhận thức (exercice cognitif).
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi những loạn năng mà căn bệnh thoái hóa này gây nên ?
GS Gilles Kemoun : Bệnh Alzheimer được biểu hiện bằng một sự teo não (atrophie du cerveau), xảy ra ở vài vùng của vỏ não và của hippocampe (liên quan với trí nhớ và ngôn ngữ). Sự teo não này là do sự tích tụ của những protéine amyloide, gây nên sự tạo thành những mảng (plaques), và sự thoái hóa của những protéine tau. Những bất thường này sẽ dần dần bóp nghẹt các neurone và làm chết chúng.
Hỏi : Khi lớn tuổi, triệu chứng quên càng ngày thường xảy ra. Những triệu chứng của một bệnh Alzheimer giai đoạn đầu là gì ?
GS Gilles Kemoun : Khi những rối loạn trầm trọng dần. Khi ta cảm thấy khó tìm lại con đường ta thường đi qua. Khi ta không còn biết là năm nào nữa. Nhưng những triệu chứng quên này không nhất thiết là dấu hiệu của căn bệnh.
Hỏi : Phải chăng chẩn đoán đôi khi khó xác lập ?
GS Gilles Kemoun : Để có được chẩn đoán, ta thực hiện những trắc nghiệm của các chức năng nhận thức (fonction cognitive). Sau cùng, một IRM cho phép thấy có một sự teo lại của vài vùng của vỏ não hay hồi hải mã. Trong trường hợp nghi ngờ, ta chọc dò tủy sống. Với những thăm dò này, ta có được một độ tin cậy khoảng 90%. Tiến triển khác nhau tùy theo những cá thể và tuổi lúc não bộ bị thương tổn. Nhưng, ở một giai đoạn nào đó, bệnh Alzheimer dẫn đến một sự mất tự trị (perte d’autonomie) một cách không cưỡng được.
Hỏi : Hiện ta điều trị bệnh này như thế nào ?
GS Gilles Kemoun : Sự điều trị có tính chất toàn bộ. Ta liên kết sử dụng thuốc với những điều trị không dùng thuốc : kích thích nhận thức (stimulation cognitive), âm nhạc điều trị (musico-thérapie)… Hiện ta có hai họ thuốc : những anticholinestérasique có tác dụng kích thích sự vận hành của các neurone, và những antiglutamate, có tác dụng chống lại sự dư thừa những độc chất đối với neurone. Mục tiêu của những điều trị này giống nhau : giảm các triệu chứng. Nhưng chúng không tác dụng theo cùng cách ở tất cả những bệnh nhân, và những tác dụng giảm đi với thời gian. Bây giờ ta biết rằng phối hợp một hoạt động vật lý với những kích thích nhận thức cho phép cải thiện những hiệu năng nhận thức (performance cognitive) cũng như vận động. Chúng ta sẽ chương trình hóa nó trong điều trị các bệnh nhân.
Hỏi : Nguyên tắc của điều trị mới được gọi là rTMS là gì ?
GS Gilles Kemoun : Đó là một sự phối hợp chưa từng có của hai liệu pháp : sự kích thích từ qua sọ (stimulation magnétique transcranienne) và kích thích nhận thức (stimulation cognitive). Mục đích : có được một hoạt động cộng lực (activité synergique) để kích thích các mạng neurone bị biến thái. Từ trường sẽ sinh ra một dòng điện ở vỏ não. Dòng điện này sẽ lan tràn trong các neurone dưới vỏ não, như thế cải thiện những nối kết (connexion) của chúng và, do đó, cải thiện sự truyền của các thông tin.
Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi protocole của điều trị.
GS Gilles Kemoun : Sau khi thực hiện một IRM cho thấy những vùng não bị teo, ta đặt một bobine (thiết bị sinh ra một từ trường) trên đầu của bệnh nhân, đối diện với vùng cần kích thích , đồng thời yêu cầu bệnh nhân làm những bài tập nhận thức (exercice cognitif) trên ordinateur. Mục đích là doper vùng não mà ta muốn đạt đến. Buổi điều trị kéo dài một giờ, được lập lại 5 ngày mỗi tuần trong 6 tuần.
Hỏi : Phải chăng ta đã thực hiện những công trình nghiên cứu với liệu pháp này ?
GS Gilles Kemoun : Nhiều công trình nghiên cứu, ở Israel và ở Hoa Kỳ, đã cho phép đánh giá những lợi ích của nó. Kíp của GS José Martin Rabey ở Israel đã công bố, trong ” Journal of Neural Transmission”, một công trình nghiên cứu trên 15 bệnh nhân và một công trình khác trên 8 bệnh nhân. Một thử nghiệm khác đang được tiến hành, được thực hiện bởi GS Alvaro Pascual-Leone, ở Hoa Kỳ, trên 21 bệnh nhân. Cho đến nay, những kết quả đã cho thấy một sự cải thiện rõ rệt những test cognitif, một năng lực tốt hơn trong những hoạt động của cuộc sống hàng ngày và một sự thỏa mãn ở những bệnh nhân và những người phụ giúp. Những tác dụng phụ tỏ ra rất ít : một cảm giác nhiệt (sensation de chaleur) và vài triệu chứng đau đầu tạm thời.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu sẽ được tiếp tục ?
GS Gilles Kemoun : Kíp nghiên cứu của chúng tôi của clinique Brétéché (Groupe Vedici) de Nantes, đã có được kỹ thuật này, hiện đang thiết đặt, cùng với CHU de Nantes và bệnh viện Broca (Paris), một công trình nghiên cứu trên một số lượng bệnh nhân ngày càng quan trọng. Những thử nghiệm khác đang được tiến hành.
(PARIS MATCH 24/12/2014-30/12/2014)

8/ NHỮNG NGƯỜI LẠC QUAN CÓ MỘT PROFIL SỨC KHỎE TỐT HƠN
Nhìn tương lai màu hồng dẫn đến những hành vi thuận lợi hơn cho sức khỏe, đặc biệt là tim mạch.
CARDIOLOGIE. Những người lạc quan sống lâu hơn ? Hơi sớm để xác nhận điều đó nhưng dầu sao những người này có một profil tốt hơn về tim mạch, theo một công trình nghiên cứu Hoa Kỳ, được công bố trong số vừa qua của tạp chí Health Behavior and Policy Review.
Một loạt các trắc nghiệm đã được thực hiện để đánh giá sức khỏe của hơn 51.000 người Mỹ tuổi từ 45 đến 84 tuổi : đo huyết áp, nhưng dầu sao những người này có một profil tốt hơn (corpulence), nồng độ đường và cholestérol trong máu, chế độ ăn uống, chứng nghiện thuốc lá, nhưng cũng tình trạng của gan, thận, sự hiện diện của chứng hư khớp (arthrose), đánh giá sức khỏe tâm thần tổng quát. Điều độc đáo là cũng đo nét tính tình, tính lạc quan (optimisme).
Để thuộc về những người lạc quan nhất, phải đồng ý với những xác nhận sau đây : Trong những lúc không chắc chắn, tôi thường chờ đợi điều tốt nhất ; Nhìn toàn bộ, tôi chờ đợi những điều tốt đến với tôi hơn là những điều xấu ; Tôi luôn luôn lạc quan đứng trước tương lai của tôi. Cũng phải bất đồng với 3 điều xác nhận sau đây : tôi hầu như không bao giờ dự kiến những điều xảy ra như tôi mong muốn ; Nếu có những xác suất rằng điều đó xấu đi đối với tôi, điều đó sẽ trở nên xấu ; tôi hiếm khi chờ đợi những điều tốt đến với tôi.
NHỮNG PHÂN TÍCH TỶ LỆ TỬ VONG
Kết quả : ” Những người lạc quan nhất có hai lần cơ may nhiều hơn có một sức khỏe tim mạch lý tưởng so với những người bi quan nhất “, GS Rosalba Hernandez thuộc đại học Illinois (Hoa Kỳ) đã chứng thực như vậy.”, ” sự liên kết này vẫn có ý nghĩa ngay cả sau khi đã điều chỉnh sự so sánh tùy theo những đặc điểm xã hội (tuổi, chủng tộc, nguồn gốc, trình độ giáo dục và mức lợi tức) và sức khỏe tâm thần”, bà đã thêm vào như vậy.
Tuy nhiên sẽ phải chờ đợi những phân tích tỷ lệ tử vong để xác nhận rằng sự cải thiện profil tim mạch được thể hiện bởi một sự giảm những biến cố tim mạch và tử vong.
Chính chỉ vào năm 2009 mà BS Hilary Tindle, thuộc đại học Pittsburg (Hoa Kỳ) đã có ý tưởng kiểm tra xem surmortalité được quan sát ở những người bi quan và/hoặc trầm cảm có biểu hiện ngược lại so với một tính chất bảo vệ tim mạch của tính lạc quan.
BS Tindle như thế lấy lại những dữ kiện của gần 100.000 phụ nữ tuổi ít nhất 45, mãn kinh và ban đầu không có vấn đề về sức khỏe. Trong thời gian 8 năm của công trình nghiên cứu, bà đã ghi nhận rằng những người lạc quan có một nguy cơ tử vong giảm 14%, đặc biệt qua một sự giảm 30% tỷ lệ tử vong đó nguyên nhân tim mạch.
Làm sao giải thích hiện tượng này ? Trong công trình nghiên cứu của GS Hernandez, lợi ích của tính lạc quan một phần là do hành vi (comportement). Thật vậy, những người lạc quan có khuynh hướng ít béo phì hơn, hoạt động nhiều hơn về mặt vật lý và không hút thuốc. Do đó những tham số sinh học (paramètre biologique) cũng thuận lợi hơn. Vậy rốt cuộc không phải tính lạc quan ảnh hưởng một cách trực tiếp mà sự kiện rằng nét tính chất này, một cách gián tiếp, khiến có một hành vi lành mạnh hơn. Vài công trình nghiên cứu cho thấy rằng cùng những yếu tố nguy cơ tương tự, chứng xơ vữa động mạch, được đo lường bằng siêu âm động mạch có tiến triển nhanh hơn ở những người lạc quan.
(LE FIGARO 4/1/2015)

9/ UNG THƯ PHỔI : ĐIỀU TRỊ IT XÂM NHẬP HƠN, NHẮM ĐÍCH HƠN.
GS Thierry Le Chevalier, cancérologue, chủ tịch Viện ung thư ngực Gustave-Roussy-Marie Lannelongue, tổng kết những tiến bộ mới nhất cho phép chữa lành nhiều ung thư phổi hơn.
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi tần số của những ung thư phổi ?
GS Thierry Le Chevalier. Ở Pháp, ta thống kê 40.000 trường hợp mới mỗi năm. Trong khi chúng giảm nhẹ ở những người đàn ông, chúng lại đang gia tăng ở các phụ nữ, dễ nhạy cảm hơn với thuốc lá, yếu tố tạo thuận quan trọng nhất.
Hỏi : Phải chăng có nhiều dạng ung thư phổi ?
GS Thierry Le Chevalier. Có hai dạng chính, những ung thư được gọi là “những tế bào nhỏ” (cancer à petites cellules) và những ung thư “không phải những tế bào nhỏ” (cancer à non petites cellules), những ung thư sau này chiếm phần lớn các trường hợp, và có những sous-type mà sự xếp loại có tầm quan trọng trong sự lựa chọn các điều trị.
Hỏi : Ta đảm bảo chẩn đoán như thế nào ?
GS Thierry Le Chevalier. Ung thư phổi được nghi ngờ trên một hình ảnh chụp cắt lớp vi tính và được định rõ hơn bởi Tep-scan. Nhưng chẩn đoán chỉ thật sự được xác định với một sinh thiết qua nội soi mềm (fibroscopie) hay một chọc dò được hưởng dẫn bởi scanner.
Hỏi : Chúng ta hãy đề cập những ung thư thường gặp nhất, những ung thư “không phải những tế bào nhỏ” Những giai đoạn trầm trọng khác nhau là gì ?
GS Thierry Le Chevalier. Có 3 giai đoạn. 1. Ung thư phổi còn khu trú (cancer localisé), căn bệnh được giới hạn vào một nodule, được kèm theo hay không bởi vài hạch tại chỗ (những giai đoạn I và II). 2. Ung thư tiến triển tại chỗ (cancer localement évolué), nó đã xâm nhập một cấu trúc lân cận như trung thất, tim, thực quản, một đốt sống…(giai đoạn III). 3. Bệnh đã lan tỏa ra khỏi ngực (giai đoạn IV).
Hỏi : Tùy theo những giai đoạn và trước khi có những tiến bộ mới nhất, những điều trị thông thường là gì ?
GS Thierry Le Chevalier. 1. Đối với những ung thư giai đoạn I và II, điều trị là ngoại khoa. Tùy theo định vị của khối u và kích thước của nó, ta lấy đi hoặc là một thùy, hoặc là toàn bộ phổi và ta thực hiện nạo hạch (curage ganglionnaire). Đó là một động tác nặng nề vì ta phải mở ngực. Những kết quả sinh thiết chỉ rõ có cần phải cho một điều trị bổ sung bằng hóa trị hay xa trị hay không. Đối với những giai đoạn này, mục đích là có được một sự chữa lành vĩnh viễn. 2. Điều trị những khối u đã tiến triển tại chỗ (tumeurs localement avancées) gồm những buổi xạ trị (séances de radiothérapie), thường kết hợp với một protocole de chimiothérapie. 3. Những ung thư lan tràn giai đoạn IV được điều trị một cách hệ thống bằng hóa trị. Đối với những giai đoạn IIIvà IV, mục đích là kiểm soát căn bệnh và những triệu chứng của nó để có được một thời gian thuyên giảm rất dài.
Hỏi : Vài bệnh nhân bị một ung thư khu trú trước đây cần một phẫu thuật nặng nề giờ đây có thể hưởng được những tiến bộ nào ?
GS Thierry Le Chevalier. Ngày nay, can thiệp bảo tồn hơn nhiều : ta cố gìn giữ , khi nào có thể được, càng nhiều mô phổi càng tốt để giữ năng lực hô hấp càng nhiều càng tốt. Vidéothoracoscopie, một kỹ thuật vi xâm nhập, cho phép, tùy theo định vị của khối u, tránh mở ngực, gây nên ít đau hậu phẫu hơn và một sự phục hồi nhanh hơn. Tiến bộ khác đối với những khối u nhỏ : những công trình nghiên cứu cho thấy rằng với một xạ trị nhắm đích (radiothérapie ciblée), đặc biệt với CyberKinife hay Novalis, trong vài trường hợp cho phép thay thế một cuộc mổ (kỹ thuật “radiochirurgie”).
Hỏi : Đối với những trường hợp ung thư giai đoạn III, những tiến bộ ở chỗ nào ?
GS Thierry Le Chevalier. Những kỹ thuật xạ trị (radiothérapie) được cải thiện và cho phép nhắm đích tốt hơn những khối u và tiết kiệm nhiều hơn những mô lành kế cận. Sự nhắm đích này cũng gia tăng tính hiệu quả của điều trị.
Hỏi: Những tiến bộ mới nhất đối với những bệnh nhân bị một ung thư giai đoạn IV ?
GS Thierry Le Chevalier. Những bệnh nhân bị ung thư giai đoạn IV ngày nay được hưởng một điều trị cá thể hóa (traitement individualisé), ” sur-mesure”, được xác định bởi những đặc điểm phân tử của những tế bào ung thư của bệnh nhân. Chính tùy theo những kết quả có được nhờ sự phân tích một mẫu nghiệm khối u (chọc dò hay sinh thiet) mà ta sẽ quyết định thực hiện một hóa liệu pháp cổ điển hay một điều trị nhắm đích, đặc hiệu hơn. Mục đích của nó là tấn công những tế bào ung thư, đồng thời hạn chế những tác dụng độc lên những tế bào lành mạnh. Những tác dụng phụ của nó, càng ngày càng được kiểm soát tốt hơn, không làm rụng tóc. Những điều trị nhắm đích này (4 lần hiệu quả hơn hóa trị) đang phát triển mạnh. Hơn 40 loại thuốc đang đánh được đánh giá. Những ung thư tế bào nhỏ (cancer à petites cellules chưa nhận những liệu pháp nhắm đích này.
(PARIS MATCH 12/1-2015- 21/1/2015)

10/ UNG THƯ TỤY TẠNG : HƯỚNG VỀ MỘT VIRUS ĐIỀU TRỊ ?
Các nhà nghiên cứu của Inserm (đơn vị 1037) của đại học Toulouse, được điều khiển bởi Pierre Cordelier, đã tiến hành một loạt những công trình nghiên cứu nhằm đánh giá tính hiệu quả của một virus được gọi là “oncolytique”, bởi vì những tế bào ung thư dễ bị thương tổn hơn nhiều đối với nhiễm trùng virus so với những tế bào lành mạnh. Virus này phải đi vào trong những tế bào của khối u, tăng sinh ở đó và giết chết chúng đồng thời vẫn được dung nạp tốt bởi cơ thể và vô hại đối với những tế bào lành mạnh. Oncolytique, được trắc nghiệm bởi những nhà nghiên cứu Toulouse là một virus để l’herpès được biến đổi, hội đủ tất cả những tiêu chuẩn này. Một thử nghiệm trên những khối u tụy tạng nguồn gốc người được ghép trên chuột đã cho thấy rằng chỉ một mũi tiêm virus này làm giảm kích thước của các khối u 75% trong 15 ngày, và rằng sự phối hợp với một hóa liệu pháp còn làm khuếch đại kết quả này. Không phải là không có thể rằng hai mũi tiêm có thể phá hủy hoàn toàn hơn những khối u. Giai đoạn kế tiếp : những công trình nghiên cứu ở người.
(PARIS MATCH 29/1/2015-4/2/2015)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(14/2/2015)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

4 Responses to Thời sự y học số 364 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 602 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 607 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  3. Pingback: Thời sự y học số 613 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  4. Pingback: Cấp cứu bệnh ngoài da số 3 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Bình luận về bài viết này