Thời sự y học số 608 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. PHƯƠNG PHÁP NGỪA THAI NAM GIỚI VẪN CÒN GẶP KHÓ KHĂN.
FERTILITÉ. «Chẳng bao lâu nữa một viên thuốc ngừa thai cho đàn ông ! », giới truyền thông đại chúng, bi cám dổ bởi những nghiên cứu thường rất sơ khởi, từng lúc đều đặn đã kêu lên như vậy. Nhưng buộc phải chứng thực rằng : ngoài túi dương vật (préservatif), và cắt bỏ ống dẫn tinh (vasectomie) khó thuyết phục, ít giải pháp dành cho đàn ông để ngừa thai hiện hữu và sự ngừa thai của nam giới vẫn một mối quan tâm chủ yếu đối với phụ nữ.

Những lý do có nhiều, bắt đầu là những frein biologique. Mặc dầu rất được trông chờ, những viên thuốc không nhất thiết là giải pháp tốt. « Ta không bắt buộc có một copié collé ở đàn ông và ở đàn bà. Sinh lý của họ là rất khác nhau », BS Antoine Faix, urologue, andrologue, sexologue ở Montpellier đã nhận xét như vậy. Thật vậy tinh hoàn và buồng trứng không hề hoạt động cùng cách, và sự phát triển của một phương pháp ngừa thai nam giới vấp phải ba chướng ngại », BS Vincent Hupertan, urologue ở Paris đã xác nhận như vậy.

Trước hết, chu kỳ chế tạo các giao tử. Trong khi chu kỳ buồng trứng, được điều hòa bởi oestrogène và progestérone, có thể được biến đổi bởi những liều rất thấp của những kích thích tố này với một hiệu quả tức thì và có thể đảo ngược, đó không phải là trường hợp của chu kỳ của tinh hoàn, chu kỳ này liên tục và kéo dài 3 tháng để đi đến sự tạo thành các tinh trùng chín. Hậu quả : để có được một hiệu quả ngừa thai với một viên thuốc dựa trên các hormone, phải chờ đợi 3 -6 tháng và, khi ngừng, lại phải 3 đến 6 tháng để sự sản xuất của các tinh trùng được tái lập.

Ngoài ra, phải cho những liều trên sinh lý (doses supraphysiologiques) của testostérone để có được sự ngừng sản xuất các tinh trùng ; vì không có dạng thuốc uống, nên điều đó cần một mũi tiêm testostérone mỗi tuần.

« Sau cùng, trong trường hợp điều trị kéo dài, có thể có một sự mất vĩnh viễn chức năng kích thích tố : ta có thí dụ của những người uống thuốc kích thích và tiêu thụ testostérone một cách trái phép. Những tinh hoàn của họ trở nên bị teo sau vài năm, đôi khi họ phải dùng những kích thích tố thay thế suốt đời », BS Faix đã xác nhận như vậy. « Nguy cơ bị bệnh tim mạch có thể gia tăng, như ở những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai », BS Hupertan đã nói như vậy.

Xét vì những gò bó này, testostérone không được phép đưa ra thị trường ở Pháp trong chỉ định này. OMS đúng là đã tỏ ý tán thành, nhưng đối với các thầy thuốc niệu khoa thì không : « Một phương pháp ngừa thai tốt phải hữu ích, hiệu quả (có 80% répondeur, vậy phải kiểm tra bằng những spermogramme), có thể đảo ngược (chỉ là như vậy nếu sự kê đơn không vượt quá 18 tháng) và có thể chấp nhận : hoặc một sự ngừng vĩnh viễn của sự sản xuất các hormone bởi các tỉnh hoàn không có gì vô hại », BS Hupertan đã đánh giá như vậy.

Vậy sự nghiên cứu cố gắng tìm ra những giải pháp mới cho một phương pháp ngừa thai nam giới hiệu quả, và có thể chấp nhận được. Sưởi ấm các tinh hoàn (slip chauffant), phong bế sự trinh sản (parthénogenèse), ngăn cản các tinh trùng chuyển động…Những ý tưởng thì nhiều, nhưng chưa một ý tưởng nào đã chứng tỏ tính hiệu quả và tính vô hại của nó.

Còn lại cắt ống dẫn tinh (vasectomie), một kỹ thuật ngoại khoa, được biết từ lâu, đơn giản và không có những nguy cơ (điều này làm cho nó không thể sánh kịp, cùng với thủ thuật tương đương ở nữ giới, thắt vòi trứng). Rất được thực hành trong vài vùng của thế giới, kỹ thuật này khó ap đất ở Pháp. « Cắt ống dẫn tinh đã bị cấm ở Pháp cho đến tận 2001, khác với những nước khác, ở đó nó được đề nghị từ nhiều thập niên và được xem như lựa chọn ngừa thai đa số bởi vì đó là điều dễ dàng hơn và ít phí tốn hơn », BS Faix đã nhận xét như vậy. Từ lâu vẫn nằm trong bóng tối ở Pháp, kỹ thuật vasectomie đã bắt đầu được biết trong vụ những người được tiệt sản (stérilisés) ở Bordeaux, vào năm 1936…Một người vô chính phủ người Áo, thực hiện bí mật cắt ống dẫn tinh, đã bị buộc tội, với lý đó là đã thu thập sự đồng ý của những bệnh nhân, đã không cho phép thực hiện điều sẽ vẫn được xem như một mutilation cho đến 1994. Đặc thù Pháp này được trả giá : « Ngoại khoa là một affaire de compagnonnage, thế mà thủ thuật này đã không được giảng dạy cũng không được ban bố ». Cũng không có văn hóa gia đình nam giới về vasectomie : « Ở Pháp, vasectomie không ở trong truyền thống đối với những người đàn ông, từ cha đến con », BS Faix đã ghi chú như vậy.
Đạo luật 4/7/2001 sau cùng cho phép vasectomie, với điều kiện được dành cho những người thành niên, có khả năng hiểu những enjeux (không phế tật trí tuệ, không curatelle hay tutelle). Phương pháp tiến hành là tự do và tự ý. Họ ký một thỏa thuận với một thời hạn suy nghĩ 4 tháng. « Từ đó, chúng tôi nhận càng ngày càng nhiều yêu cầu và các phụ nữ, từ lâu là những người duy nhất chiu gánh nặng của một sự ngừa thai và của những tác dụng phụ của nó, đánh giá rằng ông chồng làm cố gắng này vì họ », BS Catherine Solano, sexologue (Paris), đồng tác giả vớiGS Pascal De Sutter của La Mécanique sexuelle des hommes : l’érection, đã báo cáo như vậy. Những lý do khác, mới hơn, được nêu lên bởi những ứng viên cắt ống dẫn tinh. Họ sơ rằng sự phát triển của vợ chồng không truyền qua các con nữa.

Vậy sự cắt ống dẫn tinh tiến triển, nhưng một cách chậm chạp. Ý nghĩ xưa lẫn lộn nó với sự thiến (castration) đã không hoàn toàn biến mất, và nhiều người đàn ông, BS Solano đã nhắc lại như vậy, còn cần được trấn an trước khi chuyển qua hành động : « Họ sợ rằng tinh dịch không còn như trước nữa, rằng sau đó khả năng tình dục thay đổi mặc đầu không có một hậu quả nào lên đời sống tình dục của họ (họ vẫn phóng tinh), không có một rối loạn nào về ham muốn, cũng như không có rối loạn về sự cương ».
(LE FIGARO 16/5/2022)

II. CẮT ỐNG DẪN TINH PHÁT TRIỂN, NHƯNG CÒN LÀM NHIỀU ĐÀN ÔNG CHÁN GHÉT.
« Ở Québec, có 8 triệu dân, 13000 vasectomie được thực hiện mỗi năm, BS Vincent Hupertan, urologue đã báo cáo như vậy. Để so sánh, nước Pháp có 8 lần nhiều dân hơn cho 19000 vasectomie mỗi năm : đó là it, nhưng 10 lần nhiều hơn năm 2010. Ngoài ra để tìm một thầy thuốc niệu khoa thực hành nó có nhiều khó khăn hơn.»
Ở Pháp, can thiệp xảy ra trong một cơ sở y tế (clinique hay bệnh viện) chứ không ở trong một phòng mạch.
Hai kỹ thuật khả dĩ : ngoại khoa quy ước (chirurgie conventionnelle) với gây mê tổng quát, hay cắt ống dẫn tinh không dùng dao (vasectomie sans scapel) với gây tê tại chỗ (Li technique). « Kỹ thuật thứ hai phát xuất từ Trung quốc. Phải tìm thấy, bằng ấn chẩn, ống dẫn tinh (canal déférent) trong thừng tinh (cordon), tách nó khỏi bó tĩnh mạch (paquet veineux), đưa nó đến dưới da, nắm lấy nó với một pince đặc biệt và với một pince nhọn, đâm thủng da đối diện, đưa ống dẫn tinh ra ngoài. Sự cắt ống dẫn tinh được thực hiện dưới kiểm soát thị giác », BS Hupertan đã nói như vậy. Trong thực hành không dùng dao này, can thiệp kéo dài khoảng 10 phút, bệnh nhân trở về nhà ngay và vết sẹo không cần phải săn sóc đặc biệt.

Trong ngoại khoa quy ước, thầy thuốc ngoại khoa xẻ trước khi tìm kiếm ống dẫn tinh, rồi nguyên tắc của sự cắt cũng như vậy. Bệnh nhân xuất viện cùng ngày. Đường xẻ vì lớn hơn, nên những săn sóc vệ sinh tại chỗ và những thuốc chống đau được kê đơn.

Dầu cho kỹ thuật là gì, sau đó phải nghỉ ngơi : không mang vật nặng, không thể thao, không phóng tinh trong tuần tiếp theo sau.

Sau cùng, sự triệt sản không tức thời. « Sau một cắt ống dẫn tinh, dầu kỹ thuật là gì, những người đàn ông vẫn có thể có khả năng sinh sản (fertile) cho đến 3 tháng và khoảng 30 lần phóng tinh. Họ phải thực hiện một spermogramme sau 3 tháng. Không có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt hay thiếu hụt testostérone và những tinh hoàn không sưng, như vài người lo sợ : những tinh trùng chết sẽ được tháo qua những đường bạch huyết, BS Antoine Faix, urologue đã trấn an như vậy.
(LE FIGARO 16/5/2022)

III. NGỪA THAI NAM GIỚI : NGHIÊN CỨU TÍCH CỰC …VÀ GIÀU TƯỞNG TƯỢNG.
1. QUẦN LÓT SƯỞI ẤM (SLIP CHAUFFANT)
 Dựa trên sự kiện là các tinh trùng chỉ hoạt động ở nhiệt độ 34-35 độ C và rằng mọi gia tăng bền bỉ của nhiệt độ có thể được kèm theo bởi một rối loạn của khả năng sinh sản. Một équipe Toulouse đã phát triển một đồ lót ngừa thai (sous-vêtement contraceptif) dựa trên một sự chuyển nhiệt của cơ thể (ở nhiệt độ 36-37 độ C) về các tinh hoàn. Để thực hiện điều này, người đàn ông đưa những tinh hoàn của mình lên về phía thân mình, rồi mặc slip contraceptif đồng thời để dương vật ra ngoài. Sự mất năng lực sinh sản (infertilité) có được trong 3 đến 6 tháng, với điều kiện các tinh hoàn vẫn ở trong vị trí này mỗi ngày ít nhất 15 giờ trên 24, (tính hiệu quả được kiểm tra bằng spermogramme). «Đó là một kỹ thuật còn trong vòng thí nghiệm và ta không biết những tác dụng phụ trong thời gian dài hạn : có nguy cơ hơn bị ung thư tinh hoàn hay không, như điều đó xảy ra đối với những tinh hoàn vẫn nằm trong xoang bụng (cryptorchidie) ? Kỹ thuật có thể đảo ngược hay không ? Phải ít nhất 400 cặp được theo dõi trong năm năm để chuẩn nhận nó », BS Antoine Faix, urologue, andrologue và sexologue ở Montpellier đã định rõ như vậy. « Trong lúc chờ đợi, những người đàn ông đã sử dụng nó được khuyến nghị phải chờ ít nhất 6 tháng trước khi thụ thai », BS Vincent Hupertan, urologue ở Paris, đã định rõ như vậy.

2. VÒNG TRÁNH THAI BẰNG SILICONE ANDRO-SWITCH
Vòng tránh thai cho phép đưa lên và giữ các tinh hoàn trên cao của bìu dái để có được một sự chuyển nhiệt của cơ thể về phía các tinh hoàn. Phương pháp này bị đình chỉ vào tháng 12/2021 bởi ANSM vì không có những dữ liệu khoa học xác nhận tính hiệu quả và độ an toàn của nó. « Những người đàn ông đã sử dụng nó được khuyến nghị không thụ thai trong sáu tháng tiếp theo sau khi ngừng phương pháp và đi khám thầy thuốc trước khi thụ thai : có thể hiện diện một nguy cơ dị tật thai nhi nếu các tinh trùng không trong trạng thái tốt », BS Catherine Solano, sexologue, đã định rõ như vậy. Cũng phải đi khám trong trường hợp trở ngại, đau, hay khó tiểu.


3. BLOQUEUR DES RÉCEPTEURS A L’ACIDE RÉTINOIQUE
Acide rétinoique là một dẫn xuất của vitamine A. Vì vitamine A « tham gia vào sự sinh tinh trùng (spermatogenèse), nên ý tưởng là phong bế những thụ thể đặc hiệu của nó để làm ngừng sự sinh tình trùng», BS Hupertan đã định rõ như vậy. Nhưng còn quá sớm để xác nhận rằng sẽ không có những tác dụng phụ ở người đàn ông, như những rối loạn thị giác, vì lẽ vitamine A tham dự vào điều đó. Sau những thử nghiệm lâm sàng đáng phấn khởi ở chuột, một start-up Hoa Kỳ chuẩn bị một hồ sơ ở FDA để bắt đầu những thử nghiệm lâm sàng ở đàn ông, nếu có thể từ nay đến cuối năm.

4. NHỮNG CHẤT ĐƯỢC TIÊM VÀOỐNG DẪN TINH
« Nghiên cứu quan tâm đến những chất có thể được tiêm vào trong ống dẫn tinh với một tác dụng ngừa thai. Hướng đầu tiên : sự tiêm vào một polymère để biến đổi những tính chất của các tinh trùng (làm chúng ít di động và không làm thụ thai), kỹ thuật sẽ có thể đảo ngược nhờ tiêm một chất khác (protocole Rising, được thí nghiệm ở Ẩn Độ). Hướng khác : tiêm một gel đến bít ống dẫn tinh (Vasalgel, US) với khả năng có thể làm tan nó về sau, hay ở Đức, đặt một « robinet » trên ống dẫn tinh để mở hay đóng nó, BS Faix và Hupertan đã chỉ như vậy.

5. VACCIN CHỐNG TINH TRÙNG
«Những hướng khác dựa vào một vaccin chống tinh trùng, nhưng chưa một thử nghiệm lâm sàng nào đã được bắt đầu ở người », BS Faix đã báo cáo như vậy.
(LE FIGARO 16/5/2022)

IV. CO THẮT ĐAU ÂM ĐẠO (VAGINISME) : LÀM SAO CHỮA LÀNH ?

Đó là một rối loạn sinh dục của phụ nữ rất phổ biến, có thể làm hỏng cuộc sống lứa đôi. Những giải thích bởi bác sĩ Catherine Solano.

Hỏi : Co thắt đau âm đạo (vaginisme) là gì ?
BS Catherine Solano. Chứng bệnh này được thể hiện bởi một sự co thắt phản xạ và không tự ý của các cơ bao quanh âm đạo. Ngay khi một tampon, một ngón tay, một spéculum, một dilatateur hay dương vật đến gần âm hộ. Vậy đó là một phobie de la pénétration. Nếu ta cố nài, sự đau đớn không chịu được xuất hiện. Một sự đưa vào tưởng tượng hay dự kiến có thể đủ để phát khởi nó. Giữa 2 và 5% các phụ nữ bị rối loạn này. Điều đó không ngăn cản có một đời sống tình dục và cảm thấy khoái lạc, mặc dầu không đưa dương vật vào âm đạo. Do xấu hổ, quá ít cặp vợ chồng hay phụ nữ đi khám bệnh. Thường chính sự mong muốn có con thúc đẩy họ đi khám. Trên bình diện chức năng và của khả năng sinh sản (fertilité), tất cả đều bình thường. Một thai nghén có thể có được bởi cặp vợ chồng mà không phải chờ đợi sự chữa lành của chứng co thắt đau âm đạo, nếu chính họ đưa tinh dịch (sperme) vào vùng âm đạo bằng một pipette.

Hỏi : Nguyên nhân là gì ?
BS Catherine Solano. Ta phân biệt hai loại co thắt đau âm đạo : nguyên phát và thứ phát. Trong co thắt đau âm đạo nguyên phát (vaginisme primaire), thường gặp nhất, sự đưa vào dương vật đã không bao giờ có thể xảy ra (nguồn của những hôn nhân không động phòng). Thuần túy tinh thần, nó được liên kết với một sự sợ của thân thể và âm đạo, gây nên bởi một chấn thương tại chỗ (choc do tai nạn, ngoại khoa, excision), một thăm khám phụ khoa được cảm nhận thô bạo, một sự tấn công tình dục hay một sự hãm hiếp, một sự sợ tình dục, sợ thai nghén, sinh đẻ, sợ mất một đứa con…Một sự giáo dục gây ấn tượng tội lỗi (éducation culpabilisatrice), làm tăng giá trị sự trinh tiết, qủy hóa giới tính của đàn ông, cũng như pornographie làm dễ hay gia tăng rối loạn. Về co thắt đau âm đạo thứ phát (vaginisme secondaire), nó ít được cảm thấy như là xấu hổ hơn nhiều. Đó là những phụ nữ đã trải nghiệm những giao hợp với sự đưa vào dương vật. Nhưng sự xuất hiện của một chấn thương âm đạo nguồn gốc y khoa hay liên kết với một bệnh lý đã là một yếu tố phát khởi : ngoại khoa, xạ trị, nhiễm trùng tại chỗ (nấm), sự sinh đẻ mal vécu, IVG, những bệnh ngoài da (lichen vulvaire, psoriasis). Trong tất cả các trường hợp, não khóa lại các cơ của sàn hội âm. Phản ứng tâm lý này là một yếu tố chủ chốt. Không bao giờ ép để đưa dương vật vào, điều đó sẽ làm trầm trong sự co thắt đau âm đạo. Chú ý, một thăm khám lâm sàng chính xác bởi thầy thuốc phụ khoa là cần thiết bởi vì, đôi khi, không có co thắt đau âm đạo, đó là một bride nhỏ hay một bất thường của màng trinh, chữa lành đơn giản nếu ta phát hiện chúng, là nguyên nhân của đau đớn.

Hỏi : Điều trị co thắt đau âm đạo như thế nào ?
BS Catherine Solano. Ta phối hợp hai phương pháp. Phương cách thứ nhất là tâm lý để déconstruire le schéma mental mà cơ thể và âm đạo sợ hãi. Tôi giải thích vùng hoạt động như thế nào, rằng âm đạo được dự kiến một cách tự nhiên để mở và dương vật, mà cấu trúc là xốp, để thích ứng với âm đạo và đi vào nhẹ nhàng. Tôi cũng sử dụng EMDR (eye movement desensitization and reprocessing), rất hiệu quả đối với stress postraumatique.Phương pháp này sử dụng những cử động tích cực của nhãn cầu, phỏng lại những cử động của ban đêm (khi não xử lý những thông tin trong lúc mơ). Nó cho phép tái tổ chức và sắp xếp sự cố sợ hãi (événement craint) vào trong quá khứ. Có thể có những phương pháp khác (hypnose, tâm lý liệu pháp…). Phương cách thứ hai là cơ học : người phụ nữ sử dụng những cái nong âm đạo nhỏ bằng mousse, có những kích thước tăng dần, bắt đầu từ một modèle rất mảnh. Khi bệnh nhân sẵn sàng, chính tôi hoàn thành một cách nhẹ nhàng sự thuần hóa âm đạo (apprivoisement vaginal) trên bàn khám bằng cách đặt một ngón tay ở cửa vào của âm đạo. Tôi cũng dạy cho họ, bằng những bài tập, làm giãn các cơ của sàn hội âm bằng cách trước hết co nó để nó có thể giãn ra sau đó. Điều này cho phép kiếm soát trở lại các cơ có những co thắt do phản xạ. Phải tránh sử dụng Botox tiêm, hung bạo, chữa tạm và có phản ứng ngược.

Hỏi : Những kết quả là gì ?
BS Catherine Solano. Sự chữa lành đôi khi nhanh chóng (trong một lần khám), thường hơn xảy ra từ từ (nhiều tuần hay tháng, một buổi mỗi 15 ngày). Tất cả tùy thuộc vào nguyên nhân (đối với một sự hãm hiếp, đó thường lâu hơn). Khuyên sự hiện diện của partenaire lúc khám. Chính bởi sự nhẹ nhàng và lòng tin cậy mà ta chữa lành bệnh.
(PARIS MATCH 25/5-1/6/2022)

V. TEST HPV MỖI 5 NĂM HIỆU QUẢ ĐỂ PHÒNG NGỪA UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
Một nghiên cứu en vie réelle quy mô lớn xác nhận lợi ích của những examen de dépistage được thực hiện cách quãng.

PRÉVENTION. Sự điều tra phát hiện của ung thư cổ tử cung đã hoàn toàn được xem lại năm 2019. Ung thư cổ tử cung được gây nên bởi những infection à papillomavirus humain (HPV). Từ nay, dépistage được khuyến nghị mỗi 5 năm ở những phụ nữ từ 30 đến 64 tuổi, trong khung cảnh của một chương trình quốc gia nhắm vào càng nhiều bệnh nhân càng tốt.
Lịch trình này được củng cố thêm, hôm thứ ba 31/5, bởi một nghiên cứu của British Medical Journal cho thấy, lần đầu tiên trong đời sống thực, rằng sự bảo vệ được duy trì rất tốt trong 5 năm sau một test HPV âm tính. Mặc dầu phần lớn các nhiễm bởi HPV được loại bỏ một cách tự nhiên bởi một hệ miễn dịch, một số nhỏ chống lại được, và có thể gây nên sự phát triển những tế bào bất thường khả dĩ thoái triển thành ung thư sau 15 năm.
Trong nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đã đo tỷ lệ của những thương tổn tiền ung thư (lésions précancéreuses) và của những ung thư được chẩn đoán giữa 2013 và 2019 trong một quần thể 1,3 triệu phụ nữ được điều tra phát hiện ở Anh. « Họ cũng xác nhận rằng test HPV là hai lần rưỡi bảo vệ ung thư cổ tử cung hơn dépistage cytologique par frottis mà nó đã thay thế », BS Joseph Monsonego, chủ tịch của commission des pathologies associées aux papillomavirus ở Collège national des gynécologues et obstétriciens français (CNGOF), đã bình luận như vậy.

Examen par frottis, từ nay dành cho những phụ nữ từ 25 đến 30 tuổi, dựa trên một phân tích hình thái học nhằm phát hiện những tế bào bất thường. Nó ít đáng tin cậy hơn nhiều so với test mới HPV, dựa trên sự nhận diện phân tử cua các virus à risque, và nhạy cảm 98% để phát hiện những thương tổn tiền ung thư. Sự điều tra phát hiện này cũng cho phép điều trị nhung ung thư ở một giai đoạn sớm và như thế cho phép cải thiện những cơ may chữa lành.

Trong trường hợp test HPV dương tính, bệnh nhân được đề nghị một frottis cytologique de triage, được theo sau bởi một colposcopie nếu những tế bào nghi ngờ được phát hiện. Khi không có gì bất thường được ghi nhận, bệnh nhân phải thực hiện một test HPV một năm sau, trước khi gia nhập, trong trường hợp kết quả âm tính, nhóm của những phụ nữ được điều tra phát hiện mỗi năm năm. « Đó là một điểm của protocole Pháp, có lẽ cần được xem lại, bởi vì những nhà khoa học Anh khuyến nghị một theo dõi lúc 3 năm », BS Monsonego đã ghi chú như vậy. Ngoài ra nghiên cứu chuẩn nhận tính hiệu quả của hai loại test, bởi ADN và bởi ARN messager.

Ung thư của cổ tử cung, gây bệnh cho 3000 phụ nữ mỗi năm ở Pháp và giết chết 1100 người, sẽ có thể tránh được nhờ sự điều tra phát hiện và sự tiêm chủng, theo OMS. Nhưng hai can thiệp này khó được thiết đặt một cách thường quy trong đất nước của chúng ta. Giữa 2018 và 2020, 59% những phụ nữ từ 25 đến 65 tuổi đã tham gia vào công tác điều tra phát hiện, theo Santé publique France. Mục tiêu của giới hữu trách y tế là đạt tỷ lệ 80% các phụ nữ. Tỷ lệ điều tra phát hiện giảm mạnh theo tuổi và thay đổi tùy theo các département.

Về sự tiêm chủng, được khuyến nghị ở các thiếu nữ và thiếu nam, tuổi từ 11 đến 14 tuổi (với một rattrapage có thể đến 19 tuổi), cũng không đủ. Vào năm 2020, 41% những thiếu niên đã nhận một liều lúc 15 tuổi, trong khi 33% hoàn toàn được chủng lúc 16 tuổi
(LE FIGARO 1/6/2022)
Đọc thêm :
– TSYH số 499 : bài số 8 (cancer du col utérin : test HPV par autoprélèvement)

VI. NÃO BỘ GIỮ NHỮNG DI CHỨNG CỦA COVID-19 ?

– Hơn 3/4 những người bị nhập viện vì Covid còn có những triệu chứng cách xa đợt nhiễm virus
– Nhiều nghiên cứu đã phát hiện những tác dụng loại thần kinh ở vài bệnh nhân.
Với thời gian nhìn lại mà chúng ta có hiện nay, ta đánh giá rằng hơn 3/4 những người bị nhập viện vì Covid còn có những triệu chứng cách xa đợt nhiễm virus và khoảng một nửa những người đã không được nhập viện vẫn giữ trung bình một triệu chứng.

Nhiều nghiên cứu đã phát hiện những triệu chứng loại thần kinh, tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau. Trong chừng mực nào Covid đã hay sẽ để lại
những dấu vết trong não của những người đã bị nhiễm ?
Neurologue và phó khoa ở Cliniques universitaires Saint-Luc,GS Vincent van Pesch thận trọng điểm lại tình hình hiện nay của các kiến thức.

Hỏi : Làm sao gọi những thương tổn của não được quan sát ở vài người bị nhiễm bởi Covid-19 ?
GS Vincent van Pesch : Thay vì gợi lên những di chứng, tôi sẽ nói về những biến chứng thần kinh, vài trong số chúng có thể khỏi hay để lại những di chứng. Tuy nhiên phải phân biệt rõ, một mặt, sự xuất hiện khả dĩ của những thương tổn thần kinh xảy ra đồng thời hay tiếp theo sau nhiễm bởi Sars-Cov-2 và, mặt khác, sự xuất hiện của những triệu chứng thần kinh khác có thể xảy ra cách xa nhiễm, nằm trong khung cảnh của điều mà hiện nay ta gọi « covid long ». Nói một cách khác, trong một trường hợp, có thể có những biến chứng cấp tính có thể làm thương tổn não, và trong một trường hợp khác, đó là những triệu chứng không liên kết với những thương tổn được tạo thành.

Hỏi :Những triệu chứng thần kinh thường gặp nhất đã được thông tin đầy đủ là gì ?
GS Vincent van Pesch : Tùy theo những tài liệu xuất bản, ta tìm thấy theo thứ tự giảm dần encéphalopathie (28-30%), được biểu hiện bởi lú lẫn, kích động. Sau đó, tai biến mạch máu não (26-49%), viêm não (9%), hội chứng Guillain-Barré (6,8%) và hiếm hơn parkinsonisme hay những cử động bất thường. Vài tài liệu xuất bản cũng đã ghi nhận những biến chứng loại tâm thần (18%). Trong trường hợp Covid long, những biến chứng thuộc phạm vi thần kinh học là rất không đồng nhất. Những triệu chứng được mô tả trong những nghiên cứu, theo tần số, là : brain fog hay brouillard cérébral, nghĩa là khó chú ý, khó tập trung, những rối loạn của trí nhớ công tác (mémoire de travail), nhưng cũng đau đầu, tê cóng, cảm giác kim châm, đau cơ, cảm giác chóng mặt, ù tai…Tất cả điều đó liên kết với mệt, lo âu, rối loạn giấc ngủ.

Hỏi : Những triệu chứng vừa mơ hồ vừa biến thiên …
GS Vincent van Pesch : Thật vậy. Có một sự song song được thực hiện với những biểu hiện mà ta có thể có trong khung cảnh một stress post-traumatique. Ta cũng bàn cãi những giống nhau với hội chứng mệt mãn tính (syndrome de fatigue chronique) hay ngay cả fibromyalgie. Tôi cố trấn an bệnh nhân vì đó không liên kết với một thương tổn và rằng vấn đề loạn năng này có thể đào ngược. Những thăm dò không cho thấy thương tổn của hệ thần kinh. Vậy trên lý thuyết tiên lượng là thuận lợi.

Hỏi : Những biến chứng có liên kết với mức độ nghiêm trọng của bệnh ?
GS Vincent van Pesch : Nguy cơ di chứng tùy thuộc loại thương tổn. Nó cao hơn trong trường hợp tai biến mạch máu não và viêm não, bởi vì trong những trường hợp này có những thương tổn cấu trúc ở não. Phải nhấn mạnh rằng những biến chứng thần kích của Covid-19 đã được quan sát chủ yếu ở những bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ (tuổi già, sa sút trí tuệ, những bệnh lý tim xảy ra đồng thời…) hay một thể nặng hơn của bệnh với suy hô hấp. Một nghiên cứu của Trung quốc công bố gần đây, được thực hiện trên 1400 bệnh nhân, với một tuổi trung bình 69 tuổi, đã phát hiện rằng nguy cơ những di chứng trí tuệ vào lúc 1 năm là quan trọng hơn ở những bệnh nhân đã bị một thể nặng của bệnh.

Hỏi : Những thương tổn này có không đảo ngược không ?
GS Vincent van Pesch :Lần nữa, phải phân biệt hai tình huống. Một mặt, khi não bộ đã bị tổn hại bởi một tai biến mạch máu não hay một viêm (viêm não), những thương tổn có thể tồn tại và để lại những di chứng thần kinh. Mặt khác, khi não bộ đã bị một bệnh não (encéphalopathie) không thương tổn có thể thấy được ở IRM, những rối loạn thần kinh một phần có thể đảo ngược, có lẽ liên quan với sự biến mất của những bất thường liên kết với Covid nhưng cũng với những năng lực tự nhiên của não tự tái tổ chức và dự trữ neurone hiện hữu trước khi bị bệnh.

Hỏi : Người ta biết gì về khả năng xâm nhập của virus này ?
GS Vincent van Pesch. Virus có một năng lực thâm nhập thần kinh (capacité neuro-invasive) qua hành khứu, nhưng cũng có thể qua đường máu. Những série giải phẫu tử thi của những bệnh nhân với những biến chứng thần kinh đã phát hiện những thương tổn viêm ở não (nhất là trong thân não), không luôn luôn liên kết với sự hiện diện của virus. Khả năng phát triển những thương tổn thần kinh là do nhiều yếu tố và liên quan những yếu tố toàn thân như hạ huyết áp và sự thiếu oxygène, dẫn đến một sự giảm tưới máu của não, một sự gia tăng của sự biểu hiện của những yếu tố làm dễ những huyết khối và một sự dễ vỡ của thành mạch máu cũng như một sự tăng kích hoạt miễn dịch và một sự sản xuất quá mức của những phân tử viêm (orage cytokinique)

Hỏi : Phải chăng ta đã quan sát những biến đổi ở não bộ ?
GS Vincent van Pesch. Một nghiên cứu mới đây, được công bố trong tạp chí Nature bởi équipe củaGS Gwenaelle Douaud, đã so sánh tiến triển của những thể tích não trong một nhóm 400 người đã bị Covid 19 với những thể tích não của những trường hợp chứng (cas controles), 85% đã có một thể vừa phải của bệnh, không nhập viện. Phân tích, được thực hiện trung bình 4,5 tháng sau khi bị nhiễm, đã tiết lộ rằng có một sự teo rõ rệt hơn (0,2-2%) của những vùng liên kết với khửu giặc nhưng cũng của thể tích toàn bộ của não, đặc biệt của chất xám. Những người này cho thấy một sự chậm chạp gia tăng trong sự thực hiện vài công việc trí tuệ (taches cognitives). Tuy nhiên nghiên cứu này phải được giải thích một cách thận trọng vì những lý do khác nhau. Những bệnh nhân bị Covid có lẽ về cơ bản có những đặc điểm khiến họ có khuynh hướng phát triển những bất thường này. Ngoài ra, những kết quả này liên quan với nhiễm bởi biến thể Alpha và do đó không thể được suy diễn cho những tác dụng của những biến thể khác lên chức năng não. Ngoài ra, những kết quả này, không thể áp dụng cho những người trưởng thành trẻ tuổi hơn hay cho những trẻ em hay cho những chủng tộc khác, đã có được trong một thời gian theo dõi ngắn. Chúng ta không có một ý tưởng nào về những bất thường này có sẽ tồn tại trong thời gian dài hạn hơn hay không. Nguy cơ bị những di chứng thường trực có lẽ quan trọng hơn nếu người bị bệnh vốn đã yếu ớt.

Hỏi : Một nhiễm Covid có thể tạo điều kiện cho những bệnh Alzheimer hay Parkinson ?
GS Vincent van Pesch. Tôi sẽ vẫn rất thận trọng về chủ đề này bởi vì chúng tôi chỉ có những dữ liệu một phần trong thời gian ngắn hạn trong những quần thể đặc thù. Những nghiên cứu đang được lặp lại trong những nhóm khác, những nước khác, với những bệnh nhân bị những biến thể mới, với một thời gian theo dõi lâu hơn. Vào giai đoạn này, tuyệt đối không thể kết luận rằng Covid-19 làm dễ sự xuất hiện của sa sút trí tuệ (démence) của Alzheimer hay của bệnh Parkinson. Ta không thể xác lập một cách chính thức một mối liên hệ nhân quả nhất là tất cả những bệnh lý thoái hóa thần kinh này cần nhiều thập niên đề xuất hiện ở não bộ.

Hỏi : Khi nào phải lo ngại, thậm chí đi khám bệnh ?
GS Vincent van Pesch. Một bệnh nhân đã bị Covid và có những khó khăn trí tuệ (difficultés cognitives) (những rối loạn về trí nhớ hay về sự chú ý, khó tập trung, khó thực hành), có những lo âu trong cuộc sống hàng ngày, nhất là về mặt nghề nghiệp, ảnh hưởng năng lực tự trị hay sinh ra một sự phụ thuộc chức năng đối với những người chung quanh, có thể đi khám bệnh để xác định nguồn gốc của những triệu chứng và hiểu tốt nhất làm sao điều trị họ.
(LA LIBRE BELGIQUE 6/4/2022)
Đọc thêm :
– TSYH số 602 : bài số 1 (Covid ảnh hưởng não bộ như thế nào ? )
– TSYH số 591 : bài số 5 (Covid tấn công não bộ như thế nào)
– TSYH số 589 : bài số 10 (Mê sảng, hậu quả của những thể nặng)
– TSYH số 588 : bàisố 6

VII. VIÊM LỢI RĂNG, VIÊM CẬN RĂNG : PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ
1/3 những răng bị mất hay bị nhổ ở nha sĩ là do viêm lợi răng (gengivite) và viêm cận răng (parodontite). Valérie Travert giải thích làm sao tránh chúng.

Hỏi : Một cách chính xác hai thuật ngữ này chỉ gì ?
BS Valérie Travert. Phải nhắc lại rằng các lợi răng (gencive) tạo một cổ chung quanh men răng (émail), lớp ngoài có thể thấy được phủ thân răng (couronne). Giữa lợi răng và men răng hiện hữu một khoảng rất mảnh : rãnh lợi răng (sillon gingival) (sulcus), bọc nhỏ mà các vi khuẩn dễ dàng xâm thực để tăng sinh và đôi khi gây nên một viêm lợi răng (gingivite). Các lợi răng trở nên đỏ, sưng (phù), đối tượng của chảy máu khi chải răng cũng như của những đau ngẫu nhiên hay khi đè ép. Từ đó các vi khuẩn có thể đi xuống sâu hơn dọc theo các chân răng (racine denataire) trong điều mà ta gọi là mô cận răng (parodonte), vùng ở đó các răng bám vào các xương hàm. Khi đó các vi khuẩn có thể phá hủy dây chằng alvéolo-dentaire, dây chằng này buộc các chân răng vào xương, và phá hủy chính xương hàm mà những chân răng này bám vào. Đó là viêm cận răng (parodontite) ! Nó làm cho răng di động với hậu qua một sự nhai trở ngại, đau, nguy cơ lòi chân răng (déchaussement). Tuy vậy hai bệnh lý này có thể tránh được.

Hỏi : Những nguyên nhân là gì ?
BS Valérie Travert. Trước hết là một vệ sinh răng kém ! Nhiều yếu tố làm dễ cùng hiện hữu (quá nhiều đường, đái đường, nghiện thuốc lá mãn tính, lạm dụng rượu, vài điều trị kích thích tố, vài hóa trị, vị trí sai của các chiếc răng, một prothèse thích ứng kém, những nhiễm trùng tại chỗ, một sự thiếu hụt vitamine D, C và/hay calcium, mãn kinh…). Cơ chế tiêu hủy là mảng răng (plaque dentaire). Mảng răng do sự dính chặt của các vi khuẩn trên bề mặt của các răng,tạo thành một biofilm (mỗi người có biofilm của riêng mình), là một hệ sinh thái thật sự. Biofilm càng quan trọng, số các vi khuẩn càng tăng trưởng và chúng càng tương tác với nhau và có được những tính chất tiêu hủy. Nếu không có một sự bảo quản tốt của miệng, những muối khoáng hiện diện trong nước bọt có khuynh hướng canxi hóa mảng răng : đó là cao răng (tartre), thể chất cứng. Cao răng thâm nhiễm chung quanh răng, giữa các răng và dưới các lợi răng. Ở bên trọng cao răng, các vi khuẩn trú ẩn và tăng sinh.

Hỏi : Làm sao điều trị những bệnh này ?
BS Valérie Travert. Điều trị cơ bản là lấy cao răng (détartrage), được thực hiện bởi nha sĩ (nói chung không gây tê), một cách cơ học (curette) hay thường hơn bằng siêu âm. Lấy cao răng bao gồm những bề mặt nằm giữa răng và lợi răng và khoảng liên răng (espace interdentaire) ; đôi khi phải liên kết, dưới gây tê tại chỗ, một surfaçage tương tự cua những vùng sâu hơn. Mục đích là lợi răng lại bám vào răng. Trong trường hợp parodontite avancée (khi bọc đo hơn 5 mm), có thể sử dụng nhiều kỹ thuật được thực hiện dưới gây tê tại chỗ
1. Le lambeau d’assainissement : nhằm tách lợi răng để tiếp cận các chân răng và lau chùi chúng

2. La greffe de biomatériaux granuleux cho phép lấp đầy một mất xương. Ta phủ nó bằng những màng collagène biodégradable, nhằm tăng cường và bảo vệ nó. Nếu cần, một ghép lợi răng bổ sung tất cả

3. Một kỹ thuật mới đây, rất hứa hẹn, sử dụng những protéine phát xuất từ men răng, khi được đặt dưới dạng gel trên bề mặt răng, cho phép gây một điểm bám mới trên chân răng.

Hỏi : Làm sao tránh những bệnh lý này ?
BS Valérie Travert. Bằng một vệ sinh răng đều đặn và học qua nha sĩ một kỹ thuật đánh răng tốt (với một bàn chải mềm và những brossette interdentaire), sử dụng một miroir, phát hiện tức thời plaque dentaire, bains de couche và sau cùng theo dõi răng hai lần mỗi năm.
Đọc thêm :
– TSYH số 511 : bài số 5 (gingivite et Alzheimer)
– TSYH số 258 : bài số 1-4

VIII. NHỮNG BỆNH CỦA TUYẾN NƯỚC BỌT : LÀM SAO ĐIỀU TRỊ

Mặc dầu những rối loạn này rất gây khó chịu, phần lớn có thể chữa lành bằng những phương pháp bảo thủ.

Hỏi : Ông có thể nhắc lại vai trò của các tuyến nước bọt ?
GS Cyrille Chossegros. Chúng sản xuất khoảng 1 lít nước bọt mỗi ngày, cần thiết cho sự tiêu hóa (bằng cách làm ẩm các thức ăn và tác dụng của maylase, một men mạnh), cũng như cần cho sức khỏe răng-miệng (phòng ngừa nhiễm trùng và sâu răng). Nước bọt cho phép nói và . Ta có 3 tuyến nước bọt mỗi phía của miệng : tuyến mạng tại (parotide), trước tai, tuyến dưới hàm (glande submandibulaire) trên xương hàm dưới, tuyến dưới lưỡi (glande sublinguale), ở dưới lưỡi. Khoảng 700 tuyến phụ vi thể, kích thước của một đầu đinh, cũng làm ẩm xoang miệng giữa các bữa ăn.

Hỏi : Chúng thường bị nhưng rối loạn nào ?
GS Cyrille Chossegros : 1. Sự sản xuất nước bọt không đủ. Nó làm cho miệng bị khô (xérostomie). Chứng này có thể là do vài loại thuốc (lợi tiểu, thuốc hướng thần, thuốc chống trầm cảm, những thuốc giải ưu), do một xạ trị tại chỗ, một bệnh tự miễn dịch (được gọi là Gougerot-Sjogren) làm thương tổn những tuyến nước bọt và tuyến lệ, hay do một tình trạng mất nước. Điều trị là điều trị nguyên nhân, liên kết với những chất thay thế nước bọt và/hoặc một thuốc kích thích các tuyến nước bọt dùng bằng đường miệng (pilocarpine). 2. Một nhiễm trùng với sốt : nó gần như luôn luôn xảy ra ở tuyến mang tai (parotide) (ta nói là parotidite : viêm tuyến mang tai), khi đó sưng, đau đớn, một phía hay cả hai.Viêm tuyến mang tai hoặc là do virus (nhất là quai bị), ở những người không được tiêm chủng (những trường hợp do Covid-19 khỏi bệnh một cách tự nhiên đã được báo cáo), hoặc vi khuẩn, thường ở những người bị xérostomie (thí dụ trong hồi sức và được điều trị morphine làm giảm xuất lượng nước bọt). Điều trị dựa trên một kháng sinh liệu pháp thích ứng và réhydratation. 3. Những bệnh lý khác, mà những điều trị không chỉ là nội khoa, nhất là những sỏi nước bọt và những khối u.

Hỏi : Chúng ta hãy nói về những sỏi, cũng được gọi là lithiase…
GS Cyrille Chossegros. Chúng chẹn một ống nước bọt, thường nhất của một tuyến dưới hàm, hiếm hơn của một tuyến mang tai. Khoảng 1% của toàn dân bị liên hệ bởi bệnh lý này. Những dấu hiệu được đánh dấu bởi đau và sưng, chỉ một phía, được biểu hiện vào lúc đầu của những bữa ăn. Một nhiễm trùng được làm dễ bởi sự tắc ống nước bọt có thể là biến chứng của sỏi. Một scanner không tiêm chất cản quang có phép thấy chướng ngại và tuyến bị sưng phồng. Điều trị ngoại trú, được thực hiện dưới gây tê tại chỗ hay tổng quát tùy theo vị trí của viên sỏi (tiếp cận dễ đàng hay không). Ta sử dụng một ống nội soi (endoscope) rất mảnh, thiết diện 1-2 mm.Thủ thuật rất ngắn (vài phút) nếu sỏi ở cuối ống nước bọt, lâu hơn (60 phút) nếu nó ở sâu. Các biến chứng hầu như không có và những thất bại là ngoại lệ (1 trên 400 trong série của ba năm vừa qua của chúng tôi). Vậy tỷ lệ thành công gần 99%. Các bệnh nhân ăn uống ngay buổi chiều sau khi mổ ; 5% tuyến còn sưng nhưng biến mất trong 15 ngày. Lithotripsie là một phương pháp thay thế : nó tán vụn các viên sỏi tại chỗ nhờ tác dụng piézoélectrique. Nó chỉ được dành cho những sỏi tuyến mang tai ở những người sợ nội soi. Nó chỉ hiệu quả một trường hợp trên hai và không được bồi hoàn bởi Sécurité sociale.

Hỏi :... còn những u tuyến mang ta
GS Cyrille Chossegros. Chúng hiếm khi xảy ra (5 trường hợp trên 100.000) và hiền tính trong 80% những trường hợp. Đó là những adénome được gọi là pléomorphe. Chẩn đoán mô học được thực hiện trong 90% những trường hợp bằng cytoponction của tuyến. IRM cũng cho thấy một hình ảnh điển hình trong 90% những trường hợp. Ngoại khoa hiện nay, trái với ngoại khoa hôm qua, là bảo tồn. Nếu u ở trong phần trước và nông của tuyến mạng tại, nó được lấy đi bằng ngoại khoa bởi một đường xẻ đã thẩm mỹ. Nếu nó ở sâu, nó có thể được lấy đi bằng robot qua xoang miệng ở mức amygdale. Trong hai trường hợp, sự phẫu tích là chính xác và tôn trọng một giới hạn an toàn (marge de sécurité) và nhất là dây thần kinh mặt, đi xuyên qua tuyến. Trong hậu phẫu, 1/3 những bệnh nhân được mổ, bị một liệt thần kinh mặt nhẹ và tạm thời (do viêm), biến mất trong 3 tháng. Thời gian nhập viện là 48 giờ, nghỉ việc một tháng.
(PARIS MATCH 5/5-11/5/2022)

IX. TRÁI TIM CÓ NHỮNG LÝ LẼ CỦA NÓ
Directeur pour la recherche et l’enseignement của khoa tim của bệnh viện Erasme ULB, giáo sư Philippe van de Borne nhắc lại tầm quan trọng của phòng ngừa những bệnh tim-mạch máu não, nguyên nhân đầu gây tử vong trong đa số các nước phương tây

Hỏi : Phải chăng dân Bỉ đặc biệt bị những bệnh tim mạch ?
Philippe van de Borne. Nước Bỉ được xếp thứ bảy trong nhóm các nước có nguy cơ thấp vào năm 2021, trong khi những quốc gia Đông âu như Ba Lan hay Ukraine có một tỷ lệ mắc bệnh quan trọng hơn nhiều. Tuy nhiên có một bémol, trong chừng mực Bỉ không phải là học trò giỏi nhất. Điều này có nghĩa rằng không nên đánh giá thấp mối ưu tư này, vì lẽ dưới 1/3 những tử vong được ghi nhận ở Bỉ là nguồn gốc tim-mạch máu não, nghĩa là bao gồm những nhồi máu cơ tim và những tai biến mạch máu não. Chúng ta cũng phải nhấn mạnh sự khác nhau rõ ràng hiện hữu về phương diện này giữa đàn ông và đàn bà ?

Hỏi : Vậy tất cả chúng ta không bình đẳng trước loại bệnh lý này ?
Philippe van de Borne. Không phải thế ! Ở đàn ông, đó là (vào năm 2019) nguyên nhân thứ hai gây tử vong (23%), trái với phụ nữ, bị bệnh lý tim mạch (27%) hơn ung thư. Tác dụng bảo vệ của các kích thích tố nữ, biến mất với thời kỳ mãn kinh, giải thích rằng sự kiện là một người đàn ông trên 55 tuổi hay một người đàn bà trên 65 tuổi chính nó tạo một nguy cơ. Vậy có một sự chênh lệch 10 năm, mờ nhạt đi sau đó vì hy vọng sống lớn hơn của các phụ nữ. Trái lại, ta chứng thực rằng những dữ liệu này tiến triển một cách thuận lợi, vì lẽ ta mất 1/10 mỗi năm nhờ sự phòng ngừa, nhưng cũng nhờ những cải thiện của xử trí điều trị.

Hỏi : Những nguyên nhân của bệnh là gì ?
Philippe van de Borne. Trước tiên sự lão hóa (vieillissement), một nguyên nhân không thể đảo ngược, thêm vào đó là những tiền sử gia đình sớm (antécédents familiaux précoces).

Trong số những yếu tố nguy cơ có thể đảo ngược, có thuốc lá, có lẽ là tác nhân độc hại nhất. Ta ước tính rằng hút một bao thuốc lá mỗi ngày gia tăng 200% nguy cơ tim mạch mỗi ngày.

Yếu tố thứ hai mà ta có thể chữa là cao huyết áp. Khi đó cần phải làm mất cân nhiều (mất 10 kg hạ huyết áp 10 mm thủy ngân), nhưng cũng cần tập thể dục, thậm chí biến đổi chế độ ăn uống hay, dẫu sao, giảm sự tiêu thụ muối và rượu : hai ly rượu vang mỗi ngày tối đa cho một người đàn ông và một ly đối mới một người đàn bà. Nếu những điều này không đủ, có những thuốc để bình thường hóa huyết áp. Tăng cholestérol huyết và đái đường cũng là hai yếu tố nguy cơ quan trọng.

Hỏi : Sự thăm khám đều đặn thầy thuốc gia đình có được chỉ định ?
Philippe van de Borne. Tuyệt đối, bởi vì tất cả những người Bỉ phải biết trị số huyết áp, nồng độ đường và cholestérol, không quên thể trọng của mình. Với những dữ liệu này, ta biết bệnh nhân có nằm ngoài những trị số bình thường hay không. Tùy theo những kết quả, một consultation de dépistage ở những người đàn ông trên 55 tuổi và ở những người đàn bà trên 65 tuổi có thể bắt buộc, và sớm hơn nhiều nếu ta có những yếu tố nguy cơ quan trọng như chứng nghiện thuốc lá hay những tiền sử sớm trong gia đình. Dĩ nhiên, khi ta đã sống sót một nhồi máu cơ tim hay một huyết khối não, một sự theo dõi ở thầy thuốc chuyên khoa tim là bắt buộc, thống nhất với thầy thuốc đa khoa. Cũng phải nhấn mạnh tầm quan trọng của médecine du travail, vì lẽ những nguy cơ thường xuất hiện ở những người rất hoạt động trên bình diện nghề nghiệp.

Hỏi : Những triệu chứng phải báo động là những triệu chứng nào ?
Philippe van de Borne. Gần một nửa những trường hợp chết đột ngột không được đi trước bởi một triệu chứng nào. Trái lại có khi người ta cảm thấy khó thở một cách không giải thích được hay người ta cảm thấy một cơn đau thắt trong ngực, với cảm giác ngục bị ép chặt trong một mỏ cạp. Đó là hai triệu chứng chính của bệnh lý tim. Về tai biến mạch máu não, ta ghi chú những loạn năng thần kinh như một cách nói khó hiểu, một sự mất lực một bên, một thị giác kép hay sự mất cảm giác một bên. Dĩ nhiên không được đánh giá thấp tầm quan trọng của những tiền chứng này và không bao giờ quên rằng điều trị sẽ càng hiệu quả khi càng được thực hiện một cách nhanh chóng.

Hỏi : Một điểm cuối cùng mà ông thích nhấn mạnh ?
Philippe van de Borne. Tôi muốn trở lại về sự mắc phải loại bệnh này ở các phụ nữ, mặc dầu bệnh xuất hiện muộn hơn so với đàn ông. Các phụ nữ bị rất nhiều tai biến mạch máu não. Đó là một thực tế không được đánh giá thấp.
(PARIS MATCH 14/4-20/4/2022)

X. PHẢI CHĂNG TA KÊ ĐƠN QUÁ NHIỀU THUỐC CHỐNG NHỮNG RỐI LOẠN CỦA SỰ CHÚ Ý ?

Được biết dưới tên Ritaline hay Concerta, chúng càng ngày càng được kê đơn. Nhưng không luôn luôn cho các trẻ em cần nó…

HYPERACTIVITÉ. Đó là một khuynh hướng được xác định từ năm này qua năm khác : càng ngày càng nhiều trẻ em dùng những thuốc nhằm chống lại tình trạng tăng hoạt động (hyperactivité) và những rối loạn của sự chú ý. Được biết dưới tên Ritadine, Concerta, Quasym hay Medikinet, tất cả chúng chứa méthylphénidate, một chất kích thích tâm thần. Và sự tiêu thụ của chúng đã tăng hơn gấp đôi trong 10 năm, theo một nghiên cứu đã phân tích những dữ liệu của assurance-maladie, được thực hiện trên 144.509 bệnh nhân từ 0 đến 17 tuổi, được công bố vào tháng hai trong tạp chí Neuropsychiatrie de l’enfance et de l’adolescence.
Số những hộp thuốc được phát ra đã chuyển từ 183.696 vào năm 2010 lên 453.598 vào năm 2019. Cũng năm này, hơn 15.000 trẻ em mới đã được kê đơn méthylphénidate. Hơi hơn 10.000 vào năm 2011. « Sự gia tăng của sự kê đơn này được kèm theo bởi một sự gia tăng của thời gian điều trị, Sébastien Ponnou, một trong những tác giả của nghiên cứu, thầy thuốc tâm thần và maitre de conférences en sciences de l’éducation ở đại học Rouen Normandie, đã định rõ như vậy. Vào năm 2011, thời gian điều trị trung bình là 5 năm rưỡi. Từ đó, những dữ liệu của chúng tôi không cho phép chúng tôi đo lường một cách chính xác tiến triển của thời gian điều trị này cho đến 2019 những sự kiện tổng số của những kê đơn (prévalence) đã gia tăng nhanh hơn số những bệnh nhân mới (incidence) cho thấy sự gia tăng này.»

Tổng cộng, 0,75% những trẻ em được điều trị bởi méthylphénidate. Có phải lo ngại về điều đó không? Theo Bộ y tế (HAS), 3,5-5,6% những trẻ em đi học bị chứng TDAH (Trouble du déficit de l’attention avec/sans hyperactivité) ở Pháp. Nhưng không phải tất cả đều phải điều trị thuốc, HAS nhắc lại, thuốc vấn là một traitement de seconde intention, khi một xử trí tâm lý, giáo dục và xã hội tỏ ra không đủ. Tuy nhiên, chúng tôi không hề có ý định điều trị tất cả các trẻ em bị TDAH »,GS Ludovic Gicquel, trưởng khoa tâm thần trẻ em và thiếu niên của bệnh viện Henri-Laborit, ở Poitiers, đã xác nhận như vậy. Ở Pháp, việc kê đơn méthylphénidate từ lâu vẫn là confidentielle. Phải nói rằng đó là một thuốc dẫn xuất từ amphétamine. Sự thương mãi hóa nó do đó được kèm theo bởi những điều kiện kê đơn đặc biệt chặt chẽ, liên kết với nhiều cảnh cáo. Khuynh hướng đã đảo ngược năm 2004 và từ đó, những kê đơn tiến triển một cách đều đặn. Tuy nhiên, trong một báo cáo năm 2012, Cơ quan dược phẩm nhấn mạnh rằng chúng vẫn rất giới hạn so với những nước châu Âu khác hay so với Bắc Mỹ.
(LE FIGARO 4/4/2022)
Đọc thêm :
– TSYH số 434 : bài số 1, 2, 3, 4

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(19/6/2022)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s