Thời sự y học số 622 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ TÂM THẦN HỌC : HƯỚNG ĐẦY HỨA HẸN CỦA VIÊM MÃN TÍNH
Những bệnh tâm thần cũng có một nguồn gốc miễn dịch học, và điều đó làm thay đổi sự điều trị chúng.

RECHERCHE. Tâm thần phân liệt, những rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, bệnh tự kỷ (trouble du spectre autistique :TSA)…Mặc dầu những tiến bộ trong điều trị những bệnh tâm thần, nhưng những kết quả không luôn luôn đúng hẹn. Đó là lý do GS Marion Leboyer mong muốn thay đổi một cách triệt để cách tiếp cận những bệnh tâm thần. Phụ trách khoa tâm thần của những bệnh viện đại học Henri-Mondor (Créteil), giám đốc của Fondation FondaMental, được thành lập bởi Bộ nghiên cứu năm 2007 để hỗ trợ sự nghiên cứu về những bệnh tâm thần, được thưởng bởi Grand prix Inserm 2021, bà mong muốn biến tâm thần học thành một y khoa chính xác (médecine de précision) giống như ung thư học. «Những bệnh lý tâm thần là những bệnh có nguồn gốc sinh học như những bệnh khác», GS Leboyer đã nhấn mạnh như vậy. Vì lẽ ta định đặc điểm những u ung thư để đề nghị những điều trị cực kỳ cá thể hóa, tại sao không làm như vậy đối với những bệnh tâm thần ?
Những bệnh lý tâm thần xảy ra ở những người đã thừa hưởng một di sản di truyền (patrimoine génétique) làm cho họ dễ bị thương tổn hơn với những yếu tố nguy cơ môi trường, và những người đã sớm chịu hay chịu liên tiếp những stress khác nhau : những nhiễm trùng, lối sống đô thị, ngược đãi trẻ em, di dân, dùng thuốc ma túy,…Cơ thể của họ sản xuất quá nhiều phân tử viêm (molécules inflammatoires), nguồn gốc của một viêm mãn tính, cuối cùng lên não.
Nguy cơ này có thể bắt đầu nga y trước khi sinh. «Trong thời kỳ thai nghén, cả một loạt những bằng cớ dịch tễ học cho thấy một mối liên hệ giữa sự kiện có một nhiễm trùng, một bệnh tự miễn dịch, một stress,…và sự phát triển của một rối loạn tâm thần ở trẻ em sau đó», BS Ryad Tamouza, nhà nghiên cứu và chuyên gia miễn dịch học bên cạnh GS Leboyer đã xác nhận như vậy. Những nghiên cứu này phát xuất từ Bắc Âu, bởi vì những fichiers de suivi nationaux (những khám bệnh, những nhập viện) đã được thiết đặt ở đó cách nay 50 năm, điều này đã cho phép những étude rétrospective. «Những virus được nhận diện hiện nay là những virus thông thường : herpès, virus d’Epstein-Barr, cúm,…Không có virus đặc hiệu liên kết với sự phát triển của một bệnh tâm thần. Tiếp theo sau một nhiễm của người mẹ tương lai bởi một trong những virus này và nếu thai nhi có một di sản di truyền làm cho nó ít có khả năng hơn tự bảo vệ mình, điều đó có thể gây nên viêm và nhiên hậu có thể biến đổi sự phát triển thần kinh của nó. Toxoplasmose cũng được công nhận như là yếu tố nguy cơ xuất hiện bệnh tâm thần ở trẻ em vì ký sinh trùng này có một tropisme cérébral », BS Tamouza nói tiếp.

BỆNH LOẠN THẦN TỰ MIỄN DỊCH (PSYCHOSE AUTO-IMMUNE)
Ở trẻ em lớn hơn và ở người trưởng thành, sự kiện đã bị nhập viện vì một nhiễm trùng hay một bệnh tự miễn dịch gia tăng những nguy cơ về sau phát triển những rối loạn khí chất và bệnh loạn thần (psychose). Ta không còn đếm nữa nhưng nghiên cứu đã tìm thấy một sự liên kết giữa những chỉ dấu của viêm (CRP, cytokines…) và trầm cảm, những rối loạn lưỡng cực, bệnh tâm thần phân liệt hay TSA (trouble du spectre autistique).
Từ nay ta cũng biết rằng có những bệnh loạn thần tự miễn dịch (psychose auto-immune). Equipe của GS Leboyer, cộng tác với équipe của Laurent Groc ở Bordeaux, là nguồn gốc của quan niệm này. Đó là những bệnh tâm thần được đặc trưng bởi sự hiện diện của những tự kháng thể (autoanticorps) chống lại những thụ thể của những chất dẫn truyền thần kinh trong não. Gần giống với vài protéine của những tác nhân gây bệnh (ví dụ virus hay ký sinh trùng), những cấu trúc của những thụ thể này được nhận biết bởi những tự kháng thể này, điều này phát khởi một đáp ứng miễn dịch. «Khi tấn công do sai lầm những thụ thể nằm ở những synapse này, những tự kháng thể lúc ban đầu vốn được hướng chống lại những virus, những ký sinh trùng,…, lại ngăn cản sự thực hiện bình thường của dẫn truyền thần kinh, điều này làm dễ sự xuất hiện của những rối loạn loạn thần (troubles psychotiques), GS Leboyer đã nói rõ như vậy. Chúng tôi sẽ bắt đầu vào năm 2023 một chương trình nghiên cứu lâm sàng tại bệnh viện để trắc nghiệm tính hiệu quả của những chiến lược điều trị điều biến-miễn dịch (stratégie thérapeutique immunomodulatrice) (những thuốc chống viêm, truyền immunoglobuline) ngoài điều trị thông thường ở những bệnh nhân mang tự kháng thể. Những bệnh loạn thần tự miễn dịch này chiếm một tỷ lệ không nhỏ của những rối loạn lưỡng cực và những rối loạn tâm thần phân liệt, thường là những thể nặng, và chúng tôi hy vọng rằng những chiến lược điều trị này sẽ có thể mang lại những cải thiện, thậm chí những thuyên giảm ;
Trong trường hợp những kết quả tích cực, tất cả có thể đi rất nhanh bởi vì những điều trị này đã được kê đơn trong những bệnh khác, và có một kết quả tốt. Ngoài ra, vài điều trị có một phí tổn rất thấp. «Chúng tôi vừa có được một Programme và équipements prioritaires de recherche (Pepr) «Médecine de précision en psychiatrie », 80 triệu euro trong 5 năm với trục chính immunopsychiatrie, GS Leboyer lấy làm vui sướng. Chương trình này biểu hiện một niềm hy vọng lớn lao một ngày nào đó được tiếp cận những chỉ dấu chẩn đoán mới để nhận diện những nhóm đồng nhất những bệnh nhân và trắc nghiệm tính hiệu quả của những chiến lược điều trị cải tiến, nhắm đích và chính xác hơn. »
(LE FIGARO 9/1/2023)

2/ MICROBIOTE, THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM CỦA TƯƠNG LAI ?

Những bệnh tâm thần cũng phát sinh trong ống tiêu hóa. Thật vậy, khi microbiote của chúng ta bị xáo trộn, những họ các vi khuẩn không được mong muốn xâm thực ruột và sản xuất những phân tử viêm. « Dưới tác dụng của chúng, thành của ống tiêu hóa trở nên có thể thấm qua : những protéine không thoát ra khỏi thành đi vào tuần hoàn máu và gây nên một cascade inflammatoire, cuối cùng lên đến não », BS Ryad Tamouza, nhà nghiên cứu và nhà miễn dịch học ở bệnh viện Henri-Mondor (Créteil) đã giải thích như vậy.
Trong trường hợp trầm cảm, 20% đến 30% những bệnh nhân đề kháng với các thuốc chống trầm cảm và giả thuyết là một rối loạn cộng sinh (dysbiose) có thể giải thích tất cả hay một phần của những trầm cảm đề kháng này. Từ đó ý tưởng phục hồi mối liên hệ có lợi giữa người với 50.000 tỷ vi khuẩn cư ngụ trong ruột. Đó là dự án Promood, được thực hiện ở cơ quan FondaMental với star-up Gynov và nhà nghiên cứu Joel Doré ở Viện nghiên cứu quốc gia về nông nghiệp, thực phẩm và môi trường (Inrae).« Chúng tôi phối hợp một thuốc chống trầm cảm với một sự cho bổ sung 3 hoạt chất : glutamine (acide aminé) nhằm bảo vệ sự toàn vẹn của thành ruột, curcumine có những tính chất chống viêm và chống oxy hóa và vi khuẩn cộng sinh Lactobacillus rhamnosus GG, probiotique có khả năng sản xuất một tiền chất (précurseur) của sérotonine, một chất dẫn truyền thần kinh liên quan với khí chất vui vẻ», Joel Doré đã nói như vậy. 4 trung tâm tham gia vào dự án (Besançon, Bordeaux, Clermont-Ferrand và Créteil), đưa vào khoảng 90 bệnh nhân bị một đợt trầm cảm nhưng điều trị với thuốc chống trầm cảm thất bại. «Họ sẽ nhận trong hai tháng hoặc là một cung cấp hàng ngày của ba hoạt chất này, hoặc một placebo, với hy vọng rằng những hoạt chất này làm giảm viêm cấp độ thấp, làm dễ sự đề kháng với những thuốc chống trầm cảm. Những kết quả được dự kiến trước cuối năm 2023», Joel Doré nói tiếp.

DINH DƯỠNG PHÒNG NGỪA CÁ THỂ HÓA.
Một dự án khác được thực hiện bởi cơ quan trong những centres experts của các bệnh viện của Créteil và Grenoble, liên quan 150 thanh niên có một rối loạn tự kỷ (TSA : trouble du spectre autistique) với hay không những rối loạn ruột liên kết và 50 người chứng. «Trong nghiên cứu quan sát này, mức độ nghiêm trọng của bệnh tự kỷ (autisme) và mức độ nghiêm trọng của của những rối loạn ruột được xét đến, Joel Doré đã nói rõ như vậy. Những phân thu thập được sẽ được giải trình tự gène (séquençage). Mục tiêu : kiểm tra xem microbiote có bị biến đổi hay không ở những người bị một rối loạn tự kỷ và sự biến đổi này có rõ rệt hơn trong trường hợp liên kết của bệnh tự kỷ với những rối loạn ruột. Những kết quả sẽ được biết trong năm 2023. » Giai đoạn tiếp theo sẽ là thiết đặt một thử nghiệm lâm sàng nhằm giải quyết những triệu chứng ruột trong bệnh tự kỷ bằng cách phát xuất từ một phương pháp dinh dưỡng để di đến chuyển microbiote nếu không có đáp ứng với phương pháp này. Một nghiên cứu Hoa Kỳ mới đây đã cho thấy rằng hai năm sau khi chuyển microbiote lành mạnh mỗi ngày trong 7-8 tuần ở 18 trẻ em (trong đó 83% có một bệnh tự kỷ nặng), 44% đã gần như khỏi spectre autistique (tỷ lệ của những người bị tự kỷ nặng đã sụt xuống 17%)
Chương trình này được bổ sung bởi dự án French Gut, nhằm thu thập các phân của 100.000 người trưởng thành sống ở France métropolitaine. Nhiều làn sóng chiêu mộ sẽ xảy ra từ nay đến 2027 để biết rõ hơn về những mối liên hệ giữa những bệnh mãn tính và microbiote ruột, và với hy vọng đề nghị một dinh dưỡng phòng ngừa cá thể hóa (nutrition préventive personalisée) qua trung gian của những centres experts của tổ chức FondaMental. « Sự dinh dưỡng là đòn bẫy đầu tiên để tác động lên sự cộng sinh giữa một ký chủ và những vi khuẩn ruột của người này», Joel Doré đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 9/1/2023)

3/ KHÁM MIỄN DỊCH-TÂM THẦN (CONSULTATION D’IMMUNO-PSYCHIATRIE)
Từ năm 2016, GS Marion Leboyer, thầy thuốc tâm thần, và BS Ryad Tamouza, immunologiste, đã thành lập một consultation d’immuno-psychiatrie ở những bệnh viện đại học Henri-Mondor, Créteil
Hỏi : Consultation d’immuno-psychiatrie dành cho những ai ?
BS Ryad Tamouza. Chúng tôi tiếp nhận chủ yếu những người trưởng thành với những rối loạn lưỡng cực, bệnh tâm thần phân liệt, bệnh trầm cảm, bệnh tự kỷ. Consultation nhằm hiểu những nguyên nhân và thăm dò những cơ chế miễn dịch học góp phần trong bệnh lý tâm thần của họ. Tùy theo profil của họ, những bệnh nhân này có thể được đưa vào trong một thử nghiệm điều trị và nhận những điều trị chống viêm và/hay điều biến-miễn dịch (immunomodulateur), ngoài điều trị lệ thường của họ.
Hỏi : Tại sao ông tìm kiếm một hội chứng chuyển hóa (syndrome métabolique) ở những bệnh nhân tăng thể trọng của ông ?
BS Ryad Tamouza. Được tìm kiếm ở tất cả những bệnh nhân, hội chứng chuyển hóa được định nghĩa bởi một tình trạng béo phì (obésité), một đường huyết tăng cao, một cao huyết áp. Hội chứng này là quan trọng cần nhận diện và điều trị nhanh chóng bởi vì nó có thể là nguồn gốc của những bệnh tim mạch rất thường gặp trong những bệnh tâm thần và là nguyên nhân đầu tiên của tử vong ở những bệnh nhân này. Mặc dầu hội chứng này xảy ra ở 10% dân Pháp, nó thường gặp hơn nhiều trong trường hợp những rối loạn lưỡng cực (20%), tâm thần phân liệt (24%) và trầm cảm đề kháng với điều trị (dépression résistante) (38%), vì nhiều lý do (vệ sinh đời sống, thuốc…). Cũng vậy, gan mỡ (stéatose hépatique hay foie gras) xảy ra nhiều hơn ở những bệnh nhân lưỡng cực. Vậy đó là một hướng quan trọng cần đào sâu để điều trị bệnh nhân tốt hơn, nhưng cũng để hiểu nguồn gốc của sự liên kết rất thường gặp này với những bệnh tâm thần.
Hỏi : Thế thì tại sao tìm kiếm những bệnh tự miễn dịch ?
BS Ryad Tamouza. Chúng thường gặp hơn nhiều ở các bệnh nhân của chúng tôi với một bệnh tâm thần, nhưng chúng thường được điều trị ít thường hơn phần còn lại của dân chúng mặc dầu đó là một nguyên nhân của viêm mãn tính và do đó là nguyên nhân của những rối loạn tâm thần nặng. Vẫn còn một phân chia giữa y khoa thân thể (médecine somatique) và tâm thần (médecine psychiatrique), điều này làm cho những bệnh nhân này không luôn luôn được điều tra phát hiện
(LE FIGARO 9/1/2023)

4/ TẠI SAO NHỮNG ĐẠI DỊCH LÓT ĐƯỜNG CHO NHỮNG BỆNH TÂM THẦN
+ 33,6% những người bị Covid-19 có, sáu tháng sau nhiễm, những triệu chứng thần kinh-tâm thần.
+ 2 triệu người trưởng thành ở Pháp bị những triệu chứng thần kinh-tâm thần hậu-Covid
+ Năm 1882, Emil Kraepelin, thầy thuốc tâm thần Đức, đã xác lập một mối liên hệ giữa những nhiễm trùng và những rối loạn tâm thần khi ghi chú một sự tăng cao của những rối loạn tâm thần trong dân chúng sau những đại dịch hô hấp.

Những đại dịch lớn thường được đi kèm bởi một bùng nổ của những bệnh thần kinh-tinh thần (maladies neuropsychiatriques).
Trong 4 tuần đến sáu tháng tiếp theo sau một nhiễm Covid có thể phát triển một rối loạn lo âu, nhận thức, khí chất, giấc ngủ… cần được điều trị.
« Một trong những giải thích để hiểu mối liên hệ giữa một nhiễm bởi virus Covid và sự xuất hiện của những rối loạn thần kinh-tâm thần là sự tái kích hoạt của một rétrovirus người nội tại, được biết như là một yếu tố nguy cơ quan trọng của tâm thần phận liệt và của những rối loạn lưỡng cực », GS Marion Leboyer (bệnh viện Henri-Mondor, Créteil), đồng tác giả của Réinventer notre santé mentale avec la Covid-19 (Editions Odile Jacob) đã nhận xét như vậy. Nói một cách khác, virus có thể tái kích hoạt những gène của rétrovirus ngủ trong génome của chúng ta, điều này dẫn đến một cascade immuno-inflammatoire bất thường. «Ngoài ra, những bệnh nhân bị những bệnh tâm thần có nguy cơ phát triển những thể nặng của Covid-19 hai lần nhiều hơn và có nguy cơ chết vì điều đó hai lần nhiều hơn », vậy họ phải được tiêm chủng và được xem như ưu tiên. Tổ chức FondaMental đã thành lập plateforme numérique Post Covid NeuroPsy để làm dễ chẩn đoán, phát hiện và điều trị nhưng rối loạn thần kinh tâm thần của Covid long.
(LE FIGARO 9/1/2023)
Đọc thêm :
TSYH số 602 : bài số 1
TSYH số 591 : bài số 5
TSYH số 588 : bài số 6

5/ SỰ CAI THUỐC LÂU DÀI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN
Ngừng một benzodiazépine hay một thuốc chống trầm cảm là phức tạp, và điều đó phải được tổ chức theo từng trường hợp.
PHARMACOLOGIE. Trong những năm qua, một sự giảm nhẹ được khơi mào, nhưng đại dịch Covid-19 đã khởi động trở lại mạnh mẽ hơn những kê đơn các thuốc hướng thần. Lo âu, angoisse, những rối loạn giấc ngủ…Đứng trước những đau khổ tâm thần (souffrance psychique) này, su kê đơn các thuốc chống trầm cảm (antidépresseur) (+23%), những thuốc giải ưu (anxiolytique) (+15%) và những thuốc ngủ (hypnotique) (+26%) cho những bệnh nhân mới, gia tăng rất mạnh năm 2021», báo cáo của nhóm lợi ích khoa học Epi-Phare đã ghi chú như vậy vào tháng 5/2021.
Những thuốc hiệu quả nhưng phải sử dụng một cách dè sẻn, và phải biết ngừng, vì lẽ nguy cơ phụ thuộc hay khó ngừng thuốc. Những benzodiazépine được sử dụng chống lo âu (anxiété) và/hay mất ngủ (insomnie) nhưng những thuốc chống trầm cảm cũng đặc biệt có liên quan, và nguy cơ càng cao khi sự kê đơn càng dài và các liều càng quan trọng. Thế mà, buộc phải chứng thực rằng những toa thuốc không thích đáng còn quá nhiều.

Hơn một nửa những người tiêu thụ benzodiazépine dùng chúng hơn hai năm, trong khi thời gian kê đơn tối đa là 12 tuần đối với các thuốc giải âu và 4 tuần đối với những thuốc ngủ. Những kê đơn không thích ứng này lót đường cho
tình trạng phụ thuộc thuốc (dépéndance). Những nghiên cứu đánh giá rằng sự nghiện benzodiazépine ảnh hưởng 50% đến 80% những bệnh nhân. Sự nghiện này được thể hiện bởi sự không thể thiếu nó và sự cần thiết gia tăng những liều vì sự thành hình của một sự quen thuốc (accoutumance). Khi đó rất khó cai thuốc, và khi các bệnh nhân cố ngừng điều trị, một hội chứng cai thuốc (syndrome de sevrage) có thể xuất hiện trong những ngày tiếp theo. Hội chứng này được đánh dấu bởi sự trở lại của lo âu hay những rối loạn giấc ngủ, nhưng cũng bởi sự xuất hiện của những triệu chứng mới như run không tự ý, đau cơ, nôn, đau đầu, sợ ánh sáng và co giật. Đôi khi, « hội chứng cai thuốc có thể ảnh hưởng tiên lượng sinh tồn của các bệnh nhân. Chính vì lý do này mà sự ngừng phải được thực hiện một cách rất từ từ », BS Alexandra Dereux, phụ trách đơn vị ngoại trú của addictologie của bệnh viện Fernand-Widal đã nói như vậy.
Vậy sự cai các thuốc benzodiazépine phải được chương trình hóa tùy theo từng trường hợp. Trong khi, đối với vài bệnh nhân, giảm những liều từ 25% đến 50% mỗi hai tuần sẽ chịu được hơn, còn những bệnh nhân khác sẽ cần một cai thuốc chậm hơn. Ở những bệnh nhân cảm thấy khó ngừng thuốc tái diễn hay có những triệu chứng cai quá quan trọng, có thể cần phải thay thế dần dần một benzodiazépine à courte demi-vie, (thời gian cần thiết để có thể thải một nửa molécule) bởi một thuốc có demi-vie dài, chính nó cũng sẽ được dùng một cách rất từ từ », Hervé Javelot, tiến sĩ dược và neurosciences, và phụ trách Centre de ressources et d’expertise en psychopharmacologie Grand Est, đã nói thêm như vậy. Một cách cụ thể, điều đó có nghĩa thay thế một benzodiazépine được thải một cách nhanh chóng bởi cơ thể bằng một thuốc tồn tại lâu hơn trong máu để tránh những thời kỳ thiếu thuốc. Chiến lược này đặc biệt được xét đến với sự sử dụng một dung dịch uống cho phép chia nhỏ những liều còn tinh tế hơn.
Sự theo kèm tâm lý (accompagnement psychologique), và đặc biệt liệu pháp nhận thức-hành vi (thérapie cognitivo-comportementale :TCC), cũng chủ yếu trong quá trình lâu dài này để tác động lên sự mất ngủ mãn tính và sự lo âu mà sự kê đơn đã biện minh lúc khởi đầu. Suivi psychologique này tối đa hóa những cơ may thành công của cai thuốc : khoảng 80% những bệnh nhân vẫn nhịn thuốc sau một liệu pháp nhận thức-hành vi (TCC), so với 7% không một can thiệp nào và 40% trong trường hợp can thiệp, ngắn được thực hiện bởi thầy thuốc đa khoa, theo những nghiên cứu.
Ngừng những thuốc chống trầm cảm cũng là một con đường đôi khi đầy cạm bẫy. Hội chứng cai thuốc đún là hiện hữu, mặc dầu nó không liên kết với một sự nghiện (addiction) đúng nghĩa, với một cảm giác quen thuốc hay nhu cầu không cưỡng được như trong trường hợp đối với benzodiazépine. Và chỉ sau một tháng điều trị, dầu thuốc được sử dụng là gì, có thể đủ để gây nên nghiện. Ở 20% đến 80% những bệnh nhân, sự ngừng đột ngột một thuốc chống trầm cảm dẫn đến những triệu chứng giống cúm và dạ dày-ruột, những rối loạn giấc ngủ, run, chóng mặt ; những triệu chứng này biến mất trong dưới 3 ngày khi thuốc chống trầm cảm được cho trở lại. Những biểu hiện này không được lẫn lộn với một sự tái phát của trầm cảm, nói chung xuất hiện trong tháng sau khi ngừng thuốc.
Mặc dầu khó nói trước ai sẽ là những bệnh nhân liên hệ, ta chứng thực rằng những bệnh nhân đã từng có một sự không chịu thuốc tương đối vào lúc đầu của điều trị là chịu những biểu hiện cai thuốc nhiều hơn những bệnh nhân khác. « Ngoài ra, demi-vie của thuốc chống trầm cảm càng ngắn những triệu chứng sẽ càng rõ rệt », GS Christophe Lançon, trưởng khoa sức khỏe tâm thần người lớn ở CHU de Marseille, đã mô tả như vậy.
Vì vậy, theo cách của benzodiazépine, có thể thay thế một sản phẩm này bằng một sản phẩm khác, hay kê đơn một dung dịch uống hơn là những viên thuốc. Trong suốt thời kỳ cai thuốc này, sự nhờ đến tâm lý liệu pháp cũng thiết yếu để làm giảm những triệu chứng cai, nhưng cũng để phòng ngừa những tái phát của trầm cảm
(LE FIGARO 16/1/2023)
Đọc thêm :
TSYH số 527 : bài số 7 (syndrome de sevrage des antidépresseurs)

6/ MỘT HỌ LỚN CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN
+ Pháp đứng hàng thứ hai của châu Âu về tiêu thụ benzodiazépine
+ 80% những kê đơn benzodiazépine và thuốc chống trầm cảm được thực hiện bởi những thầy thuốc đa khoa
+ Cứ 5 người thì có 1 người sẽ trải nghiệm một đợt trầm cảm trong suốt cuộc đời mình
+ 17% những người Pháp có những dấu hiệu của trạng thái trầm cảm, 24% những dấu hiệu của trạng thái lo âu và 69% những vấn đề về giấc ngủ, theo điều tra Coviprev 12/2022

Họ của những thuốc hướng thần (psychotrophe) gồm 5 nhóm thuốc :
– những thuốc giải ưu (anxiolytiques)
– những thuốc ngủ (hypnotique hay somnifères)
– những thuốc chống trầm cảm (antidépresseurs)
– những thuốc điều hòa khí chất (régulateurs de l’humeur hay thymorégulateurs)
– những neuroleptique, cũng được gọi là thuốc chống loạn thần (antipsychotiques).
Tất cả những thuốc này tác động lên não bộ để cải thiện hay ổn định những quá trình sinh hóa xảy ra giữa các neurone.
Những thuốc chống loạn thần (antipsychotique) thí dụ sẽ hạn chế những hallucination hay những ý tưởng mê sảng (idées délirantes) của những bệnh nhân tâm thần phân liệt
Những thuốc điều hòa khí chất (thymorégulateurs) sẽ được sử dụng trong trường hợp rối loạn lưỡng cực để làm giảm cường độ và tần số của những đợt trầm cảm.
Những cơ chế tác dụng của những thuốc hướng thần này không hoàn toàn được hiểu rõ, nhưng phải tỏ ra kiên nhẫn để chúng được thiết đặt : có thể cần hai tuần hay hơn trước khi những hiệu quả của chúng bắt đầu được cảm thấy, và 4 đến 6 tuần trước khi hiệu quả hoàn toàn. Chính vì lý do này mà tính hiệu quả của một thuốc hướng thần không thể được đánh giá trước khoảng một tháng điều trị.
(LE FIGARO 16/1/2023)

7/ TIÊN ĐOÁN SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHỮNG RỐI LOẠN LO ÂU NGAY THỜI KỲ NIÊN THIẾU
Các nhà nghiên cứu đã nhận diện ba dấu hiệu báo trước của những rối loạn lo âu hiên diện ngay năm 14 tuổi.

PSYCHIATRIE. Ai đã không cảm thấy một ít lo âu trước một kỳ thi, một cuộc phỏng vấn tuyển dụng, một sự lấy hẹn khám bệnh quan trọng ? Mối lo âu này là tự nhiên và đôi khi cần thiết. Thật vậy chính nó sẽ thúc đẩy chúng ta hành động để làm thế nào cho tất cả xảy ra tốt nhất. Nhưng, ở vài người, lo âu có thể trở nên quá mức và dai dẳng, và dẫn đến những biểu hiện khác nhau, đi từ chứng ám ảnh sợ (phobie) đến rối loạn lo âu toàn thể (trouble anxieux généralisé), qua chứng sợ khoảng rộng (agoraphobie).Tóm lại là, suốt cả một cuộc đời, một người trên năm sẽ bị một rối loạn lo âu. Đó là những rối loạn tâm lý thường gặp nhất. Chúng thường bắt đầu ngay tuổi ấu thơ hay trong thời kỳ niên thiếu, và «ta biết rằng chẩn đoán lo âu ở người thiếu niên trẻ báo trước chứng lo âu sau này », GS Bruno Falissard, pédopsychiatre, giám đốc của centre Psychiatrie du développement et trajectoires ở Paris đã giải thích như vậy.
Còn về những thiếu niên không có những rối loạn được chẩn đoán thì sao ? Ta có thể phát hiện những trẻ có nguy cơ nhất phát triển một lo âu lâm sàng (anxiété clinique) một khi chúng trở thành người lớn ? Đó là câu hỏi mà các nhà nghiên cứu của laboratoire Trajectoires développementales et psychiatrie đã muốn trả lời. Để được như vậy, các nhà khoa học đã theo dõi một nhóm hơn 2000 thiếu niên châu Âu 14 tuổi trong 9 năm. Những người tham dự đã trả lời những bảng câu hỏi về tình trạng sức khỏe tâm lý của chúng lúc 14, 18 và 23 tuổi. Nhờ trí thông minh nhân tạo (intelligence artificielle), các nhà nghiên cứu đã có thể xác định rằng sự hiện diện ở tuổi thiếu niên neuroticisme (khuynh hướng cảm thấy những cảm xúc âm tính như sự sợ hãi, sự giận dữ, tính tội lỗi,..một sự kềm chế kém những xung năng và một sự không thích nghi đối với stress), sự thất vọng (liên kết với một sự thiếu lạc quan và tự tin) và những triệu chứng cảm xúc (quy tụ những dấu hiệu đa đạng như đau đầu hay đau dạ dày, một cảm giác lo âu, ủ rũ hay sợ hãi), gia tăng một cách đáng kể nguy cơ những rối loạn lo âu sau này.
«,Phương pháp trí thông minh nhân tạo (intelligence artificielle) đã so sánh mỗi người tham dự với những người khác để thực hiện một tiên đoán, Jean-Luc Martinot, pédopsychiatre, giám đốc nghiên cứu Inserm và một trong những tác giả của nghiên cứu đã định rõ như vậy. ‘Nghiên cứu này cho thấy những dấu hiệu đoán trước hay những dấu hiệu báo trước được nhận diện, có thể cho phép phát hiện sớm hơn những bệnh nhân và đề nghị với họ một can thiệp thích ứng và cá thể hóa, đồng thời hạn chế sự tiến triển của những bệnh lý này và những hậu quả của chúng lên đời sống hằng ngày », nhà nghiên cứu đã giải thích như vậy.
Nhưng, chú ý, các pédopsychiatre đã cảnh báo như vậy, không có vấn đề bắt toàn bộ các thiếu niên 14 tuổi chịu những trắc nghiệm này. « Những nghiên cứu khoa học vẫn hoàn toàn hữu ích, bởi vì chúng cho phép chúng ta tiến lên trong sự thông hiểu về sự vận hành chức năng của não và tâm thần của các thiếu niên. Nhưng trên thực hành, không có một lợi ích nào tiên đoán ở một thiếu niên 14 tuổi những rối loạn sẽ xảy đến trong vài năm. Bởi vì những tiên đoán này có thể hoàn toàn được xét lại bởi những yếu tố của đời sống », GS Philippe Duverger, pédopsychiatre ở CHU đ’Angers đã giải thích như vậy. Vài thiếu niên dễ bị thương tổn hơn và, tùy theo môi trường và những hoàn cảnh sống, điều đó có thể được biểu hiện hay không.»
Sự phong tỏa do dịch bệnh Covid là một thí dụ biểu tượng về điều đó. Không có cuộc khủng hoảng này, nhiều thiếu niên có lẽ sẽ không biểu hiện gì hết. Với cuộc khủng hoảng, chúng đã làm mất bù những rối loạn lo âu quan trọng. Vì vậy, thay vì tiên đoán, người chuyên gia thích phát hiện hơn. ‘Những bảng câu hỏi có thể giúp người thiếu niên nhận thức mình không được ổn’, GS Duverger đã nhấn mạnh như vậy.
Tuy nhiên, với tư cách là bố mẹ, phải phát hiện một sự khó ở (malaise) ở người thiếu niên, điều này không luôn luôn dễ. Sự giận dữ, sự sợ hãi, sự thiếu tự tin là bấy nhiêu biểu hiện của cuộc khủng hoảng của tuổi thiếu niên (crise d’adolescence). Khi nào phải lo ngại về điều đó ?« Trong cuộc khủng hoảng của tuổi thiếu niên, ta chứng kiến những dao động về khí chất. Không gì bất bình thường. Ngược lại, phải cảnh giác khi những thay đổi xuất hiện, gia tăng hay khuếch đại. Phải chú ý người thiếu niên tự cô lập, ngừng thể thao ưa thích, dừng một hoạt động văn hóa hay có những rối loạn giấc ngủ thường trực hay luôn luôn đau nơi nào đó », GS Duverger đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 16/1/2023)
Đọc thêm :
TSYH số 527 : bài số 1,2,3,4

8/ THỂ THAO, MỘT ĐỒNG MINH CHỐNG TRẦM CẢM CỦA THIẾU NIÊN
Thể thao thuốc (Sport médicament) không ngừng chứng tỏ tính hiệu quả của nó, và bệnh trầm cảm của thiếu niên được ghi ở hàng đầu của những bệnh lý trong đó Thể thao thuốc được chủ trương. Một nghiên cứu của đại học Hồng Kông dựa trên sự phân tích nhiều công trình trước đây (ta nói méta-analyse) vừa xác nhận lợi ích của một hoạt động vật lý để giảm những triệu chứng của bệnh tâm thần này, không tha miễn những thiếu niên 13-19 tuổi.
Những công trình này, được công bố vào đầu tháng giêng 2023 trong JAMA Pediatrics, đã khai thác những kết quả của 21 nghiên cứu đối với tổng cộng 2441 bệnh nhân. Đó là so sánh, ở những người thiếu niên, tác động lên những triệu chứng trầm cảm của chúng của sự thực hành đều đặn một hoạt động thể thao (trung bình ba lần mỗi tuần, mỗi buổi 50 phút), so với một nhóm chứng không thực hành thể thao. Thí nghiệm kéo dài ít nhất 4 tuần để được xét đến.

Những kết quả cho thấy một sự thụt lùi mạnh hơn của những triệu chứng trầm cảm ở những thành niên thực hành một thể thao. Tác dụng có lợi của hoạt động thể thao còn rõ rệt hơn ở những bệnh nhân có những triệu chứng trầm cảm mạnh, các tác giả đã ghi chú như vậy. Tuy nhiên các tác giả cảnh giác chống lại sự nhiệt tình quá mức : gia tăng quá mức mức độ thể thao không phải là cái bảo đảm cho một sự phục hồi tăng nhanh. ‘Một nghiên cứu mới đây đã cho thấy rằng một tần số 10 đến 15 buổi thể thao mỗi tháng cho những kết quả tốt hơn », họ đã nhấn mạnh như vậy.
Làm sao thể thao có thể có một tác dụng chống trầm cảm như vậy ? Các tác giả nhắc lại rằng khoa học chưa mang lại điều chắc chắn về vấn đề này, và đưa ra nhiều hướng giải thích. Thực hành thể thao có thể gia tăng sự phóng thích của vài chất dẫn truyền thần kinh (sérotonine, dopamine, noradrénaline), bị giảm ở những người trầm cảm. Như thế sự thực hành thể thao có thể cải thiện hình ảnh mà ta có về mình, sự tự tin và làm dễ những tương tác xã hội có lợi.

TÍNH ĐỀU ĐẶN CỦA THỰC HÀNH THỂ THAO.
Dầu cho những cơ chế là gì, những hiệu quả được quan sát là tốt đến độ, đã từ 10 đến 15 năm nay, các thầy thuốc thực hành đã đề nghị thể thao cho các bệnh nhân trẻ, GS Richard Delorme, trưởng khoa tâm thần trẻ em và thiếu niên ở bệnh viện Robert-Debré, Paris, đã làm chứng như vậy. Đó là điều trị hàng đầu của những thể nhẹ, đơn độc hay phối hợp với một liệu pháp khác », ông đã chỉ như vậy. Bệnh viện này của AP-HP có ngay cả một sân thể thao dành cho các bệnh nhân nhập viện, ở đây các buổi thực hành được theo kèm bởi một giảng viên của Education nationale
« Điều quan trọng, đó là tính đều đặn của sự thực hành », Richard Delorme đã nhận mạnh như vậy. Để được như thế, phải chọn lựa một môn thể thao thích hợp với người thiếu niên tùy theo tính tình, năng lực và những sở thích của nó, dĩ nhiên ý tưởng là tránh gây cho nó khó khăn, nhưng trái hẳn lại tăng cường sự tự tin của nó trong một khung cảnh thể thao. Vài trẻ sẽ đánh giá một thể thao tập thể (sport collectif), như basket, những trẻ khác chọn một môn thể thao trong đó ta riêng biệt trong một nhóm, như leo trèo (escalade), sau cùng những trẻ khác có thể chọn bơi lội, thể thao cá nhân nhưng thư giãn.
« Ở Pháp, chúng ta có may mắn có nhiều câu lạc bộ cho những hoạt động ngoài học đường, GS Delorme đã ghi chú như vậy. Bất hạnh thay, sự thực hành trung bình giảm đi ở những học sinh. Cha mẹ thường nghĩ rằng phải dành thời gian cho các bài tập, nhưng đó là một sai lầm. Trái lại, một trẻ có những hoạt động ngoài học đường học tập tốt hơn. Đó cũng là một phương tiện rất tốt đề phòng ngừa chứng trầm cảm và lo âu, nhưng cũng bệnh béo phì và chứng nhàn rổi không hoạt động, nhất là nhờ thu giảm thời gian trước các màn ảnh.
(LE FIGARO 16/1/2023)

9/ CANNABIS : NHỮNG CHỈ ĐỊNH VÀ NHỮNG NGUY HIỂM

Sự sử dụng cannabis médical và sự sử dụng cannabiol (bán tự do), là những chủ đề rất gây tranh cãi.
Hỏi : Bà hãy nhắc lại cho chúng tôi cannabis là gì ?
BS Nathalie Patte-Karsenti. Cannabis sinh ra từ cây gai dầu (chanvre). Những tính năng điều trị của cây này được biết từ thời đại đồ đá. Những tính năng hướng thần (psychotrope) của nó cũng vậy : nó được sử dụng bởi các thầy pháp (chaman) để lên đồng và dưới tên haschisch bởi những chiến binh khát máu của Iran thời trung cổ được gọi là haschichin (từ đó có tên assassin : kẻ sát nhân). Trong số nhiều thành phần (hơn 400) hai thành phần chủ yếu phải được xét đến :
1. THC (tétrahydrocannabinol), có những tác dụng lên tâm thần. Nó biến đổi khí chất, những điều tri giác và hành vi qua nhiều thụ thể cannabinoide hiện diện trong não. Nó biến đổi sự tiết của dopamine, chất dẫn truyền thần kinh của khoái lạc. THC có những tác dụng điều trị được xác nhận, nhất là thư giãn (relaxant) và giảm đau.
2. Cannabidiol (CBD), không phải chất hướng thần và đối với nó hiện không có một đích tế bào nào đã được nhận diện.

Hỏi : Ở Pháp, cannabis được cho phép trong những trường hợp nào ?
BS Nathalie Patte-Karsenti. Dưới dạng bất hợp pháp của nó (résine, lá, hoa…) cannabis là chất ma túy được tiêu thụ nhiều nhất ở Pháp : người ta quy cho nó 5 triệu người sử dụng trong đó 1/3 là những người tiêu thụ đều đặn và 900.000 những người tiêu thụ hàng ngày ! Cannabis không những chỉ có những tác dụng thư giãn và lâng lâng, mà còn có một tác dụng âm tính lên sự nối kết tế bào thần kinh và sự cấu tạo của não ; nó rất có hại ở những người trẻ (kể cả những thiếu niên), ở giai đoạn phát triển não. Cannabis ảnh hưởng trí nhớ ngắn hạn (mémoire à court terme) được gọi là trí nhớ công tác (mémoire du travail), động cơ (motivation), sự nhận thức mối nguy hiểm (tai nạn đường xá tăng cao), sự tập trung và, trong thời gian dài, thuong số thông minh (quotient intellectuel). Thêm vào đó, nó có hại cho hệ tim mạch (gia tăng huyết áp, nguy cơ loạn nhịp tim và viêm các huyết quản). Từ năm 2011, luật cho phép thương mãi hóa cannabis dưới dạng CBD (cannabinol), với một nồng độ THC rất thấp ( < 0,2%). Sự cho phép này đã khuyến khích sự phổ biến marketing nhiều thông điệp gán cho nó những tính năng điều trị có lợi cho sức khỏe. Tuy vậy chúng đã không bao giờ được chứng minh bởi những nghiên cứu nghiêm túc. Nghĩ rằng CBD đơn độc có cùng những tác dụng như THC mà không có những bất tiện hướng thần của nó là sai lầm và không dựa trên một thực tế khoa học nào. Thật vậy nó tác động như một chất điều biến (modulateur) của THC, điều này là tác dụng thật sự duy nhất của nó khi cả hai được liên kết.
Hỏi : Trên bình diện y khoa, những sử dụng được cho phép là những sử dụng nào ?
BS Nathalie Patte-Karsenti. Được sử dụng với sự kê toa của bác sĩ : THC tổng hợp, được dùng đơn độc, trong môi trường bệnh viện, và với sự cho phép tạm thời sử dụng (ATU : autorisation temporaire d’utilisation), trong trường hợp douleurs neuropathiques (thương tổn của một dây thần kinh hay của tủy sống hay của não bộ) không đáp ứng với những điều trị khác. Hay một hỗn hợp THC-CBD có thành phần bằng nhau, để điều trị hỗ trợ ở những người bị xơ cứng rải rác và có những rối loạn co thắt (troubles spastiques) (raideurs douloureuses). CBD dùng đơn độc chỉ có một chỉ định, điều trị phòng ngừa các cơn trong vài động kinh hiếm và nặng của trẻ em, liên kết với những thuốc chống động kinh mà nó dường như làm dễ tác dụng. Một nghiên cứu được thực hiện bởi cơ quan dược phẩm (ANSM) trên hơn 3000 người tham dự, để đánh giá cannabis trong tất cả những lãnh vực này, đang được tiến hành. Có lẽ nó sẽ cho phép đánh giá tốt hơn tính hiệu quả của hai thành phần này.
Hỏi : Ý kiến của bà về CBD ?
BS Nathalie Patte-Karsenti. Thị trường của CBD, chất không gây nghiện, không có tác dụng tâm thần và được bán tự do, đã bùng nổ trong đất nước của chúng ta. Sự không biết về cách tác dụng chính xác của nó khiến phải thận trọng. Nhiều nghiên cứu về những huile de CBD, những dạng được bán nhiều nhất, đã tiết lộ những thành phần khác với những thành phần được chỉ trên các bản chỉ dẫn với đôi khi những nồng độ của THC trên những nồng độ được cho phép. Vậy có vẻ cần, thậm chí khẩn cấp, hieu và kiểm soát tốt hơn những sản phẩm này để chúng được sử dụng một cách an toàn.
(PARIS MATCH 22/12-28/12/2022)
Đọc thêm :
TSYH số 505 : bài số 6 (résine de cannabis)
TSYH số 496 : bài số 10
TSYH số 486 : bài số 10 (cannabis)
TSYH số 323 : cannabis

10/ LE CANNABIS, NGUYÊN NHÂN KHÔNG NHỎ CỦA UNG THƯ PHỔI Ở NHỮNG THANH NIÊN
Những nghiên cứu bắt đầu phát hiện ảnh hưởng đáng báo động này của joints de cannabis.

ONCOLOGIE. Hút cannabis tỏ ra là một yếu tố nguy cơ quan trọng của ung thư phổi, nhất là ở những người dưới 50 tuổi, nhưng thầy thuốc chuyên khoa phổi, họp ở 27è Congrès de pneumologie de langue franaise, Marseille, đã lấy làm lo sợ. Nhiều nghiên cứu được trình bày trong hội nghị này đã làm ngạc nhiên những thầy thuốc chuyên khoa. « Nhìn toàn bộ, số những ung thư phổi giảm trong những thập niên qua do giảm chứng nghiện thuốc lá, nhưng nó vẫn ổn định ở những người trẻ, vậy chúng ta đã nghi ngờ cannabis góp phần vào điều đó », Pauline Pradère, penumologue ở bệnh viện Marie-Lannelongue ở Plessis-Robinson (Hauts-de-Seine) đã giải thích như vậy.
Nghiên cứu đầu tiên, được gọi là KBP 2020, được thực hiện trên gần 9000 bệnh nhân được chẩn đoán năm 2020 trong 82 trung tâm bệnh viện công, hoặc 20% của những ung thư phế quản-phổi (cancer bronchopulmonaire) được khai báo vào năm đó ở Pháp. Cuộc kiểm kê dân số này, được tổ chức bởi Collège des pneumologues của những bệnh viện toàn khoa và được tài trợ bởi khoảng 12 laboratoire pharmaceutique cũng như những hiệp hội. « Khi, năm đó, sự tiêu thụ đều đặn cannabis đã được xét đến, chúng tôi đã chứng thực rằng những người hút joint de cannabis khai báo một ung thư sớm hơn nhiều những người khác, trung bình ở tuổi 53, so với 68 tuổi ở những người chỉ hút thuốc lá và 73 tuổi ở những người không hút », Hugues Morel, trưởng khoa phổi của CHR d’Orléans và chủ tịch của Collège des penumologues des hopitaux généraux đã chỉ như vậy. Ung thư này phát ra sớm hơn ở những người hút cannabis cũng đã được quan sát trong một nghiên cứu khiêm tốn hơn được trình bày ở hội nghị boi service de pneumologie của CHU de Tour. «Trong số 77 bệnh nhân dưới 50 tuổi, 43% hút cannabis với thuốc lá, 34% chỉ hút thuốc lá, và 23% không hút thuốc, điều này gợi ý một nguy cơ gia tăng ung thư liên kết với cannabis », BS Pradère, người chỉ đạo nghiên cứu, đã định rõ như vậy.
Nhiều yếu tố góp phần vào độc tính đặc biệt của joint de cannabis. Khói của nó chứa những chất sinh ung thư được xác nhận bằng với khói của thuốc lá. Nhưng vì joint không có lọc (filtre), nên những độc chất này đi thẳng vào trong phổi, hoặc tương đương với 3 điếu thuốc, theo những phân tích. Chúng cũng đi đến trong những phế quản ở một nhiệt độ cao hơn của điếu thuốc lá, điều này gia tăng tác dụng kích thích của chúng. « Yếu tố gia trọng, sự lắng của chúng trong phổi được gia tăng bởi sự hít vào sâu và sự đọng của khói mà những người hút thực hành để có được một hiệu quả tác động tâm thần (effet psychoactif) tối đa », Pauline Pradère đã nói thêm như vậy. Nhưng ngay cả với độc tính gia tăng này, « chúng ta không biết tại sao ung thư phát triển 15 năm sớm hơn ở những người hút cannabis so với những người hút thuốc lá », BS Morel đã công nhận như vậy.
Cho đến nay, những tác dụng sinh ung thư của cannabis không được biết. Ngay cả chúng không được đề cập trên site của OMS hay của trung tâm nghiên cứu về ung thư của nó (Circ). Báo cáo mới nhất về chủ đề này của académie des sciences, d’ingénierie et để médecine của Hoa Kỳ năm 2017, ngay cả viện dẫn sự vắng mặt của mối liên hệ thống kê rõ ràng giữa sự kiện hút cannabis và nguy cơ bị một ung thư phổi, trái với ung thư tinh hoàn. « Mối hoài nghi này có lẽ là do những nghiên cứu dịch tễ học không chính xác về những lượng cannabis thật sự được hút, nhất là càng khó đánh giá khi chúng thường được trộn với thuốc lá », Pauline Pradère đã ghi chú như vậy. Tuy vậy, vào năm 2008, một nghiên cứu Tân Tây Lan được thực hiện trên những người hút cannabis thuần chất đã cho thấy rằng nguy cơ ung thư phổi gia tăng với lượng joint được tiêu thụ. Nghiên cứu này đã gây bình luận làm lo ngại của hai nhà nghiên cứu của Inserm, nhưng vì quy mô nhỏ, nên nghiên cứu vẫn là trường hợp riêng biệt. Những nghiên cứu dịch tễ học cũng phức tạp để thực hiện vì lẽ những cách tiêu thụ ma túy và một thành phần của các joint biến thiên về mặt địa lý. Kết quả, ở Hoa Kỳ, ở đây sự tiêu thụ giải trí và hợp pháp của cannabis đã bắt đầu năm 2014 trong những tiểu bang Colorado và Washington, không một nghiên cứu tầm cỡ nào đã được thực hiện để đánh giá tác động của nó lên phổi của những người Mỹ. Trên 21 tiểu bang cho phép nó hiện nay, chỉ có Californie ghi nhận ở những sản phẩm chứa cannabis nguy cơ gia tăng ung thư phổi, nguyên nhân đầu tiên gây tử vong vì ung thư trong đất nước và trên thế giới.
Ở Pháp, ở đây 4,6% những người dưới 45 tuổi hút đều đặn cannabis vào năm 2021 theo báo cáo mới nhất của Santé publique France, một nghiên cứu prospective đầu tiên về tác dụng của cannabis lên ung thư phổi đã được phát động vào năm 2021 bởi Viện ung thư quốc gia. Được thực hiện trên 150 người trẻ bị ung thư phổi được điều trị trong những bệnh viện Pháp Marie-Lannelongue, Saint-Joseph và Gustave-Roussy, công trình tìm cách nghiên cứu điều phân biệt những ung thư của những người hút đều đặn cannabis với những ung thư của những bệnh nhân khác. Sự tiêu thụ cannabis được đánh giá một cách chính xác bởi những bảng câu hỏi cặp với những liều lượng của các dẫn xuất của cannabis trong tóc. « Chính với loại nghiên cứu này mà chúng tôi có thể xác định một mối liên hệ nhân quả chính xác hơn đối với ung thư phổi », Pauline Pradère, nguồn gốc của công trình này, đã định rõ như vậy. Trong lúc chờ đợi, dẫu sao ta vẫn có thể tưởng tượng rằng sự điều tra phát hiện quốc gia về ung thư phổi bằng scanner được dự kiến sớm nhất năm 2030 sẽ tính đến những dữ kiện mới này và sẽ đưa vào nghiên cứu những người hút đều đặn cannabis
(LE FIGARO 30/1/2023)

    BS NGUYỄN VĂN THỊNH
    (22/3/2023)

    Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

    Trả lời

    Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

    WordPress.com Logo

    Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

    Facebook photo

    Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

    Connecting to %s