Thời sự y học số 592 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. RỐI LOẠN TIẾT NIỆU : MỘT VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP NHỮNG CẦN ĐƯỢC XEM TRỌNG

Được xử trí sớm, són tiểu (incontinence urinaire) và những nhiễm trùng đường tiểu thường được điều trị không cần phải mổ.
UROLOGIE. Những rò tiểu (fuite urinaire) nhỏ, những buồn tiểu cấp bách, su cần đi tiểu quá thường xuyên, khó tiểu, những nhiễm trùng đường tiểu liên tiếp : bấy nhiêu những rối loạn thường gặp mà những bệnh nhân hai giới tuy vậy thường chậm báo cáo với thầy thuốc của mình.

Các phụ nữ đặc biệt bị liên hệ hơn bởi són tiểu (một phụ nữ trên ba sau 60 tuổi) và những nhiễm trùng đường tiểu (một phụ nữ trên hai). Đối với những người đàn ông, ít bị ảnh hưởng hơn bởi són tiểu (10% những người đàn ông sau 60 tuổi) và những nhiễm trùng (dưới 5% những người đàn ông), đi tiểu không còn là một động tác đơn giản và tự động nữa khi tiền liệt tuyến can thiệp vào. Trong tất các các trường hợp, những giải pháp có thể được đề nghị, càng đơn giản và hiệu quả khi vấn đề được gợi lên sớm.

Để đề nghị điều trị tốt nhất, phải bắt đầu bằng nhận diện nguồn của inconfort. Điều tra luôn luôn bắt đầu bởi cùng câu hỏi : đó là một vấn đề tháo sạch (vidange) hay làm đầy (remplissage) ?

 Bộ tiết niệu được cấu tạo bởi một filtre (thận), cho phép co đặc những yếu tố để thải trong một bể chua (bàng quang), được trang bị bởi một tuyau (ống thoát tiểu hay nieu dao), cho phép tháo cạn nó khi bị đầy quá nhiều bằng cách quyết định mở robinet (cơ vòng tiết niệu). « Khi đầy 1/4, một sự co phản xạ xảy ra trong bàng quang, đó là buồn tiểu », GS Stéphane Larré, trưởng khoa niệu học của CHU de Reims đã giải thích như vậy. « Điều đó để một ít thời gian để tìm một nơi ở đó tháo nó trước khi nó quá đầy? Bàng quang càng đầy, sự co càng mạnh và sự buồn tiểu càng khẩn cấp. Đó là đối với sự vận hành bình thường, thoải mái. Những vấn đề bắt đầu khi một trong những yếu tố tỏ ra ít hợp tác.

 Nếu những co bóp của bàng quang là quá mạnh, chúng có thể khiến cơ vòng phải mở và gây nên những rò rỉ ngay cả khi bàng quang không đầy. Nếu bàng quang bị căng ra bởi những làm đầy quá cách quảng hay bị làm yếu đi bởi một bệnh lý thần kinh, những co bàng quang là ít mạnh hơn và ít thường xuyên hơn: chất dịch tích tụ và có thể tích chứa những vi khuẩn có hại, khi đó có thể đi ngược lên thận.
Khi đó đó không còn là một sự khó chịu đơn thuần nữa: nếu viêm bàng quang (cystite : nhiễm trùng nước tiểu trong bàng quang) là đơn giản để điều trị, viêm thận bể thân (nhiễm trùng thận) thường đối kháng với điều trị và có thể, trong những trường hợp nghiêm trọng nhất, tiến triển thành một nhiễm trúng huyết đôi khi chết người. Những nhiễm trùng cũng gây viêm toàn bộ hệ tiết niệu, khi đó có thể rít lại, gây đau và rò tiểu đôi khi dài lâu nếu những nhiễm trùng tiếp diễn.

NGOẠI KHOA BIỆN PHÁP CUỐI CÙNG
Nếu ống bị đè ép, dịch không thể chảy và tiểu tiện cần một cố gắng thật sự. Gần một người đàn ông trên năm trải nghiệm cảm giác khó chịu này ngay ở tuổi 50 khi sự gia tăng, rất bình thường, của thể tích của tuyến tiền liệt của họ ngăn cản sự mở của ống thoát tiểu lúc nước tiểu đi qua. Ở các phụ nữ, loại rối loạn này có thể xuất hiện trong trường hợp sa sinh dục (prolapsus) : khi các cơ quan của hố chậu đi xuống về phía âm đạo do sự yếu đi của đáy chậu (plancher pelvien). Đối với hai giới, nguy cơ là một sự tháo sạch không hoàn toàn của bàng quang, tạo điều kiện cho sự tù hãm của các vi khuẩn trong bộ tiết niệu, nhất là khi ống thoát tiểu, bị kích thích bởi sự đè ép.

 Khi những rối loạn tiết niệu đuoc xử trí sớm không chờ đợi, ngay khi chúng gây nên một sự khó chịu rõ ràng, có thể can thiệp với những điều trị không xâm nhập : éducation pelvienne và các thuốc trong phần lớn các trường hợp. « Khám một thầy thuốc cho phép an tâm : trong đa số các trường hợp, điều đó không nghiêm trọng, GS Larré đã nhắc lại như vậy. Các điều trị không xâm nhập, nếu ta kiện nhẫn sử dụng chúng đúng đắn, sau đó đủ đối với phần lớn các rối loạn tiết niệu.

 Vậy ngoại khoa chỉ đến như biện pháp sau cùng, với những kỹ thuật từ nay đã qua thử thách để tìm lại sự thoải mái mà mọi người có thể chờ đợi từ một động tác bình thường đơn giản và dễ chịu.
(LE FIGARO 22/11/2021)

II. SÓN TIỂU VÀ VIÊM BÀNG QUAN, QUY LUẬT KHẮC NGHIỆT CỦA CÁC PHỤ NỮ

« Các phụ nữ không dám nói về những rối loạn tiết niệu của mình bởi vì họ cho rằng đó là bình thường, GS Stéphane Larré, trưởng khoa niệu học của CHU de Reims đã nói như vậy. Nếu quả thực rằng những vấn đề này thường gặp, điều đó không có nghĩa rằng phải chấp nhận những triệu chứng đôi khi rất khó chịu. »
 Những nhiễm trùng đường tiểu là thường gặp ở các phụ nữ : hậu môn nằm không xa lỗ tiểu (orifice urinaire) và các vi khuẩn của đại tràng đến đó một cách dễ dàng. Chính vì vậy E.coli, vi khuẩn ruột thông thường nhất, được tìm thấy trong 9 trường hợp trên 10. Ngoài ra, nhưng giao hợp làm dễ sự di tản của chúng vào bên trong ống thoát tiểu. Thường nhất, những vi khuẩn này được quyet di một cách đơn giản bởi nước tiểu, nhiều lần mỗi ngày, và những nhiễm trùng tan biến một cách tự nhiên trong vòng dưới 48 giờ. Các kháng sinh cho phép giải quyết cuộc khủng hoảng nếu đau và inconfort kéo dài hay quá dữ dội. Khoảng 15% các kháng sinh được sử dư,g trên thế giới để điều trị những nhiễm trùng đường tiểu, với một nguy cơ đề kháng liên kết. Vài chuyên gia đánh giá rằng kê đơn một thuốc chống đau đường tiểu (antidouleurs urinaires) có thể để thời gian cho nhiều nhiễm trùng tiêu đi một cách tự nhiên, nhưng những chuyên gia khác cho rằng điều trị nhanh chóng nhiễm trùng trong bàng quan làm giảm nguy cơ viêm thận bể thận nghiêm trọng hơn.
RÉÉDUCATION PELVIENNE
Những nhiễm trùng liên tiếp có thể nhiên hậu làm dễ sự són tiểu bằng cách làm yếu đồ bộ tiết niệu : những thuốc có thể bù những thiếu sót này. Són tiểu lúc gắng sức (incontinence d’effort), thường gặp nhất, chủ yếu liên kết với sự lão hóa của các mô và sự yếu đi của đáy chậu, đặc biệt đối với các phụ nữ tăng thể trọng, những phụ nữ đã sinh khó hay thực hiện một hoạt động đè «lên các cơ chậu (tập tạ, chant, instruments à vent…). Khi đó rééducation pelvienne đặc biệt có hiệu quả, nhất là khi xuất hiện những triệu chứng, với điều kiện được thực hiện ở một thầy thuốc thực hành chuyên môn. Công việc này đòi hỏi những cố gắng và sự chuyên cần và phải được tiếp tục một cách đều đặn với những bài tập phải làm một mình ở nhà.

Trong trường hợp thất bại, một prothèse có thể củng cố sàn chậu với những kết quả từ nay đáng tin cậy và bền vững. Thật vậy những loại prothèse và những cách đặt mới đây đã được kiểm tra lại và tất cả các trường hợp từ nay phải được bàn bạc en équipe pluridisciplinaire để đảm bảo rằng can thiệp là thích hợp nhất đối với mỗi phụ nữ.
(LE FIGARO 22/11/2021)

Đọc thêm :
 – TSYH số 462 : bài số 4 (incontinence urinaire)
 – TSYH số 306 : bài số 1, 4 (incontinence urinaire)

III. MỘT TIỀN LIỆT TUYẾN LAN TRÀN SAU 50 TUỔI

 « Một tia nước tiểu yếu và những buồn tiểu khẩn cấp là những lý do chính khiến những người đàn ông đến khám một thầy thuốc vì những rối loạn đường tiểu », GS Romain Mathieu, thầy thuốc ngoại tiết niệu ở CHU de Rennes, đã nhấn mạnh như vậy. Hai triệu chứng này, trong đại đa số các trường hợp, liên kết với một phì đại hiền tính thông thường của tiền liệt tuyến và hiếm khi là dấu hiệu của một ung thư. »
 Vậy không một lý do nào phải do dự hỏi ý kiến khi sự đi tiểu trở nên phức tạp : tiền liệt tuyến phì đại là một hiện tượng bình thường sau 50 tuổi vì lẽ nó liên quan một người đàn ông trên hai. Thật vậy sự biến đổi của cân bằng kích thích tố dẫn đến một sự tăng trưởng của những tế bào của tuyến tiền liệt, chủ yếu trong vùng bao quanh ống thoát tiểu. Vậy ống thoáttiểu cuối cùng bị đè ép, làm cho sự tiểu tiện khó khăn hơn. Trương lực cơ của tiền liệt tuyến, cũng được tăng cường, gây những buồn tiểu khẩn cấp. Hậu quả : những thức giấc không đúng lúc vào ban đêm, đi tiểu không ngừng và một bàng quang khó tháo cạn hoàn toàn.

THĂM KHÁM TRỰC TRÀNG.
Khi đó sự bí tiểu này có thể làm dễ sự xuất hiện của những nhiễm trùng đường tiểu gây đau (infections urinaires douloureuses), tạo điều kiện cho sự són tiểu nhưng nhất là có thể biến chứng một cách nhanh chóng thành viêm thận bể thận (pyélonéphrite).

« Những người đàn ông cũng nói tự do hơn về những hậu quả len doi sống sinh dục của mình », GS Mathieu lấy làm vui mừng như vậy. Thật vậy ống phóng tinh (canal éjaculateur) đi xuyên qua tuyến tiền liệt để gặp ống thoát tiểu (urèthre) ở đó, ống thoát tiểu này chuyển vận nước tiểu và tinh dịch. Bị đè ép bởi tuyến tiền liệt, dịch phóng tinh (éjaculat) bị kẹt trong canal hay ngay cả được gởi trả lại về phía sau », người chuyên gia đã giải thích như vậy.
Chẩn đoán chỉ cần một khám trực tràng : đó là một thăm khám rất đáng tin cậy để xác nhận rằng những rối loạn tiết niệu không liên kết với một ung thư. Một khi nguy cơ này được loại bỏ, phải có được những thoi quen tốt về vệ sinh-tiết thực, có thể đủ để hạn chế những triệu chứng khó chịu. Nếu sự khó chịu kéo dài, những thuốc cho phép mang lại một sự cải thiện trong thời gian ngắn và trung hạn. Một lợi ích càng hữu ích khi trong phần lớn các trường hợp, một tiền liệt tuyến phì đại gây nên những tác dụng phụ không mong muốn, nhất là tính dục (những rối loạn của dục tính và của sự phóng tinh).

Nếu điều đó không đủ, ngoại khoa sẽ có thể được xét đến như biện pháp sau cùng : mặc dầu những phương pháp vi xâm nhập càng ngày càng chính xác để lấy đi một phần của tuyến tiền liệt ở nơi mà nó gây trở ngại nhất, can thiệp này có thể ảnh hưởng đời sống tình dục của các bệnh nhân. Trong phần lớn các trường hợp, nhất là khi sự điều trị được thực hiện sớm, sự mổ chỉ cần thiết ở một lứa tuổi mà sự khó chịu của các rối loạn tiết niệu thắng những lo sợ về tình dục
(LE FIGARO 22/11/2021)

Đọc thêm :
– TSYH số 306 : bài số 4 (incontinence urinaire et prostate, rééducation pelvienne)

IV. KHI NÀO QUAN NGẠI VỀ MỘT PHÌ ĐẠI CỦA TUYẾN TIỀN LIỆT ?

Trên 70 tuổi, 7 người đàn ông trên 10 có một sự gia tăng của kích thước của tuyến tiền liệt. Đối với thầy thuốc đa khoa, thách thức là thực hiện một chẩn đoán phân biệt, không tầm thường hóa cũng không bi thảm hóa. Làm sao tìm thấy sự cân bằng đúng đắn này ?
Sự gia tăng của kích thước của tuyến tiền liệt là một tình huống sinh bệnh lý liên kết với sự lão hóa. Phì đại (hypertrophie) hay tăng sản (hyperplasie) hiền tính của tiền liệt tuyến (HBP : hypertrophie bénigne de la prostate) là một adénome phát triển ở các tuyến hay những sợi cơ trơn của phần trung tâm của tuyến tiền liệt, GS Bertrand Tombal, trưởng khoa niệu học của Cliniques universitaires Saint-Luc, đã nhắc lại như vậy. « Thể tích gia tăng này tự nó không phải là một vấn đề. Đó nhất là những rối loạn tiết niệu của phần dưới của bộ máy (TUBA : troubles urinaires du bas appareil), được liên kết, đang được thăm dò ; vả lại đó là điều mà bệnh nhân than vãn chứ không phải là do một tiền liệt tuyến lớn ! Khi đó thầy thuốc đa khoa phải tránh hai mối nguy : phản ứng quá mức và bắt bệnh nhân chịu một loạt các xét nghiệm gây căng thẳng và không nhất thiết hữu ích hay, ngược lại, tầm thường hóa tình hình, với nguy cơ bỏ qua bên một bệnh lý tiềm tàng hay xảy ra đồng thời với HBP : một ung thư của tiền liệt tuyến hay của bàng quang, một bệnh của cổ bàng quang, những sỏi đường tiểu, một sự hẹp của ống thoát tiểu, một bàng quang thần kinh (vessie neurologique)… »

MỘT VẤN CHẨN SÂU
Vậy cần tiến hành một cách có phương pháp. Giai đoạn đầu tiên : hỏi bệnh nhân về những rối loạn tiểu tiện của phần dưới đường tiểu (TUBA : les troubles urinaires du bas appareil) : tia nước tiểu yếu, những giọt nước tiểu đến muộn, tiểu gấp hay tiểu buốt, khó tiểu, tiểu nhiều lần…và những thói quen về vệ sinh-ăn uống của bệnh nhân. « Điều đó đối với chúng ta có vẻ hiển nhiên, nhưng vài bệnh nhân không làm mối liên hệ giữa sự việc uống quá nhiều vào buổi chiều và sự việc thức dậy vào ban đêm để đi tiểu ! », BS Tombal đã nhắc lại như vậy.
IPSS (International Prostate Symptom Score) là một công cụ tốt để điều tra phát hiện, để giúp chẩn đoán và theo dõi HBP. Bảng câu hỏi này cho phép xác định mức độ nghiêm trọng của những triệu chứng tiết niệu và đánh giá ảnh hưởng của chúng lên chất lượng sống của bệnh nhân, điều này có thể ảnh hưởng lên chiến lược điều trị. Cũng phải chú ý đến những triệu chứng báo động : sự hiện diện của máu trong nước tiểu, những nhiễm trùng đường tiểu liên tiếp hay những tiền sử hay một bệnh thần kinh theo nghĩa rộng (tai biến mạch máu não, Parkinson, xơ cứng rải rác, đái đường giai đoạn tiến triển…), điều này biện minh chuyển bệnh nhân đến một thầy thuốc niêu khoa

KHÁM TRỰC TRÀNG, THỂ TÍCH TIỀN LIỆT TUYẾN VÀ PSA
Nếu những triệu chứng ít nhất là ở mức độ vừa phải, giai đoạn thứ hai là tiến hành khám lâm sàng và khám trực tràng. Trong trường hợp HBP, tuyến tiền liệt mặc dầu lớn hơn trước đây, nhưng nó mềm mại, không đau, trơn, đều đặn và được kèm theo bởi một sự biến mất của rãnh chính diện (sillon médian). Tuy nhiên, những điều chứng thực này không cho phép loại bỏ hoàn toàn một bệnh lý ung thư, « bởi vì một tuyến tiền liệt cứng và/hay với những nốt (nodule) chỉ có thể quan sát thấy trong 13% các trường hợp ung thư tiền liệt tuyến. Ung thư, nhắc lại, thường không triệu chứng. Vậy cần thận trọng ! »

Giai đoạn thứ ba là định lượng PSA. Một nồng độ tăng cao của PSA không nhất thiết đáng báo động. « Phải liên kết nó với thể tích tuyến tiền liệt, GS Tombal đã khuyên như vậy. « Một PSA 4,5 ng/ml là logic hơn trong trường hợp tiền liệt tuyến lớn như một trái cam…nhưng ít hợp lý hơn nếu nó có kích thước của một quả mận. Thật vậy trong trường hợp này, buộc phải thực hiện những thăm dò sâu hơn. »

ĐIỀU TRỊ HBP KHÔNG BIẾN CHỨNG
Một khi loại bỏ những nguyên nhân hay bệnh lý khác, khi đó bàn về chiến lược điều trị. Chiến lược này phải được hướng dẫn bởi mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, dĩ nhiên, nhưng cũng bởi tác động của chúng lên chất lượng sống của bệnh nhân.

Trong trường hợp HBP không biến chứng và TUBA từ nhẹ đến trung bình, không làm trở ngại bệnh nhân nhiều, điều trị là vô ích : theo dõi (surveillance), đả thông (informer) và giáo dục (éduquer) bệnh nhân về những tiến triển khả dĩ của HBP và thiết đặt vài thói quan vệ sinh-ăn uống, thí dụ giảm những cung cấp nước sau 18 giờ, điều này nói chung đủ để cải thiện những triệu chứng.

Trong trường hợp TUBA từ vừa phải đến nặng với biến đổi chất lượng sống,« điều trị đầu tiên đối với thầy thuốc đa khoa là kê đơn những alpha bloquant : tamsulosine (OMIC 0,4 mg mỗi ngày)hay, hiếm hơn, silodosine (SILODYX 4mg-8mg mỗi ngày», GS Tombal đã khuyến nghị như vậy. «Trong phần lớn các trường hợp, những thuốc này cải thiện một cách nhanh chóng những triệu chứng tiểu tiện. Tuy nhiên, điều quan trọng là xem lại các bệnh nhân sáu tuần sau, bởi vì khoảng 15% trong số họ không đáp ứng với điều trị. Chẩn đoán có thể sai hay HBP có thể bị biến chứng. Trong cả hai trường hợp tốt nhất là chuyển đến một thầy thuốc niệu khoa. »

KHI NÀO PHẢI MỒ ?
Tamsulosine mang lại cho bệnh nhân một sự ngơi vài năm. Tuy nhiên, sự phì đại tiến triển, điều này cuối cùng làm mất quân bình hệ bàng quan/tuyến tiền liệt. « Để làm giảm thể tích của tiền liệt tuyến, chúng ta có hai lựa chọn : điều trị thuốc và điều trị ngoại khoa. Dutastéride (AVODART 0,5mg mỗi ngày) được chỉ định đối với những tuyến tiền liệt rất lớn (>50 cc) . Thuốc này tác động lên các tuyến và làm tan tuyến tiền liệt trong hai hay ba tháng. Trái lai, nó tác dụng ít tốt hơn trên những tuyến tiền liệt kích thước trung bình (30-40 cc).

Lua chon thu hai cắt bỏ ngoại khoa phần trung tâm của tiền liệt tuyến. Vào lúc này, đó là điều trị chữa lành duy nhất của HBP. Tuy nhiên phải xét đến nó một cách thận trọng, bởi vì loại can thiệp này không phải là không có những nguy cơ phẫu thuật cũng như những tác dụng phụ. Chúng ta phải bảo vệ bệnh nhân chống lại những dérive chirurgicale », GS Tombal đã đánh giá như vậy. Ngoại khoa có ý nghĩa khi những TUBA kháng lại những điều trị thuốc, nếu chất lượng sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều hay trong trường hợp HBP biến chứng, khi bàng quang mặc dầu chống chọi nhung không tháo cạn nữa. Khi đó những biến chứng có thể cấp tính hay măn tính và ảnh hưởng phần thấp cũng như phần cao của bộ tiết niệu. Nói như vậy, khi không có những biến chứng như vậy, nếu bàng quang tháo sạch tốt và nếu bệnh nhân không quá bị trở ngại, ngoại khoa là không bắt buộc. »
(LE JOURNAL DU MÉDECIN 23/9/2021)

Đọc thêm :
– TSYH số 502 : bài số 5 (hypertrophie prostatiqueet embolisation)
– TSYH số 412 : bài số 8 (adénome de la prostate et embolisation artérielle)
– TSYH số 415 : bài số 6 (adénome de la prostate et embolisation)
– TSYH số 278 : bài số 7 (adénome de la prostate et photo-vaporisation)
– TSYH số 255 : bài số 1 (toxine botulique et adénome de la prostate)

V. MỘT ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC SAU MỘT UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN ? ĐÓ LÀ CÓ THỂ.
Docteur Antoine Faix, Urologue, andrologue et sexologue. Membre de l’Association française d’urologie et de l’Académie nationale de chirurgie.

UROLOGIE. « Tôi không còn là một người đàn ông nữa ». Là thầy thuốc tiết niệu (urologue) chuyên môn về dục tính nam, tôi đã thường nghe câu nói này ở những bệnh nhân được điều trị vì một ung thư tiền liệt tuyến. Làm sao trả lời những người đàn ông này và giúp họ tìm lại một đời sống tình dục thỏa mãn ? Đó là tất cả cái được thua, bởi vì ung thư tiền liệt tuyến được điều trị và thường chữa lành.
Những người đàn ông này thường tương đối trẻ và phần lớn khao khát giữdục tính (sexualité), bằng chứng của một nam tính (virilité) và một quan hệ vợ chồng cân bằng. Nhưng trong hơn 30% những trường hợp ; họ đã trải nghiệm những rối loạn vào lúc chẩn đoán và những điều trị chữa lành, như sự cắt bỏ tiền liệt tuyến, xạ trị và ngay cả curiethérapie, có tất cả những nguy cơ gây những di chứng sinh dục.

Sau một prostatectomie radicale (cắt bỏ hoàn toàn tuyến tiền liệt) cổ điển hay nội soi có robot hỗ trợ, sự cương (érection) thường bị ảnh hưởng, có thể dần dần được tái lập trong trường hợp có thể gìn giữ bandelette vasculo-nerveuse nếu ung thư không quá lan rộng. Sự phóng tinh không hiện hữu nữa (stérilité définitive), nhưng orgasme vẫn còn, những biến đổi cơ thể học cũng có thể xuất hiện với nhất là một sự rút ngắn tối thiểu của dương vật.

Sau một xạ trị, đôi khi được liên kết với một điều trị antiandrogénique tạm thời, những khả năng tình dục có thể bị biến đổi dần dần trong hai năm sau chuỗi điều trị và để lại những di chứng vĩnh viễn. Sau một curiethérapie, những di chứng ít gặp hơn nhưng xuất hiện nhanh hơn và gần tương tự với xạ trị.

Khi lựa chọn một điều trị chữa lành, mục tiêu sẽ là kép : quyết định một điều trị để chữa lành mặc dầu ung thư tiến triển tại chỗ, nhưng cũng bảo tồn cương và tính dục. Làm sao giúp những bệnh nhân này ? Trước hết bằng cách đánh giá bản năng tình dục trước đây của họ, bằng cách thông báo với họ về những di chứng tiềm năng và, nhất là, bằng cách đề nghị một xử trí nhanh ; nhiều giải pháp có sẵn và, một cách lý tưởng, được giải thích cho partenaire.

STYLO INJECTEUR
Sau prostatectomie radicale, những thuốc thuộc họ của Viagra và Cialis có thể đủ để tìm thấy lại một sự cương cứng thỏa mãn. Phải giải thích rõ sự cần thiết của một kích thích tính dục (stimulation sexuelle), bởi vì nhiều người tưởng tượng một tác dụng thuần « cơ học ». Những phương pháp khác hiện hữu như tiêm prostaglandine E1, thường được cảm nhận như là hung bạo và xâm nhập nhưng, nhờ một stylo injecteur, có thể dễ dàng được chấp nhận hơn ; cùng loại thuốc này có thể được tiêm vào trong canal urinaire. Vacum (hệ thống gây dépression négative) nhằm hút một cách cơ học máu trong các thể hang (corps caverneux) và ngoài cho phép một sự cương, duy trì tính đàn hồi của dương vật. Cho đến hai đến ba năm sau mổ, bằng cách trắc nghiệm những option khác nhau đôi khi phối hợp và/hay kế tiếp nhau này, những cương cũng sẽ trở lại dần dần, lúc đầu vào buổi sáng và không hoàn toàn, cho phép tìm lại những cảm giác, nhất là nếu đối thoại giác quan (dialogue sensoriel) với partenaire đã được duy trì. Điều đó cần một suivi đều đặn, lý tưởng ở đôi lứa.

Trong trường hợp phục hồi không hoàn toàn, handicap có thể hoàn toàn có thể chấp nhận được bởi vì được quản lý tốt bởi một trong những option médicale được mô tả. Nhưng đôi khi, không một điều trị nào thật sự thỏa mãn trong thời gian dài hạn, và khi đó phải xét đến một implant pénien. Đó là một giải pháp ngoại khoa cho phép tìm thấy lại một cương cứng nhờ những cylindre en silicone được đặt trong những thể hang và được kích hoạt nhờ một pompe de commande dưới da bìu, để có thể cương lên khi người ta mong muốn. Mặc dầu những cơ may thỏa mãn là cao, những bệnh nhân thường ngập ngừng do dự chừng nào họ không nắm được điểm chủ yếu là sự khoái lạc, orgasme và do đó sự thoả măn của lứa đôi là có thể có được, mặc dầu sự cương có được một cách cơ học ; những giải thích về kỹ thuật, nhưng cũng những lời chứng của những bệnh nhân được mổ, có thể giúp lấy quyết định này (implant pénien) sau khi hết ảo tưởng về một sự phục hồi tự nhiên (récupération naturelle)(không cần phải mổ để đặt implant).

Sau xạ trị và curiethérapie, cùng những chọn lựa điều trị có thể được sử dụng tuy nhiên sau thất bại của một sự phục hồi tự nhiên : sự khác nhau so sánh với lựa chọn ngoại khoa là sự xuất hiện dần dần hơn, cho phép người đàn ông và partenaire khả năng của một sự thích ứng (adaptabilité) hay một sự từ chối.

Trong lãnh vực nghiên cứu, những thuốc điều trị mới, chỉ nhắm vào vùng ung thư, đang được đánh giá và trong tương lai có thể làm giảm những tác dụng phụ lên tính dục ; trong những phương pháp điều trị mới của những di chứng cương, những nghiên cứu cũng được tiến hành để làm dễ một sự phục hồi nhanh hơn.
 Ung thư tiền liệt tuyến là ung thư thường gặp nhất ở đàn ông, mặc dầu phần lớn là ít hoặc không tiến triển và chỉ cần theo dõi nhất là ở người đàn ông trẻ ; tuy nhiên, những thể ác tính sẽ tiếp tục cần một điều trị với cái giá để lại những di chứng chủ yếu sinh dục đôi khi vĩnh viễn. Một sự xử trí với một sự lắng nghe đầy khoan đụng là cần thiết trước và sau điều trị, nhằm theo kèm bệnh nhân và partenaire để không để lại những người đàn ông được chữa lành, nhưng đau khổ riêng mình và đôi khi làm họ tiếc là đã chọn lựa điều trị của mình.
(LE FIGARO 6/9/2021)

Đọc thêm:
– TSYH số 448 : bài số 4 (dépistage), 5 (surveiller plutot que traiter)
– TSYH số 431 : bài số 5 (traitement ou surveillance ?), 6 (petit cancer), 8 (hormonothérapie et cancer métastatique)
– TSYH số 428 : bài số 6, 7 (IRM), 8 (cancer localisé et hémiablation)
– TSYH số 396 : bài số 2 (cancer de la prostate)
– TSYH số 307 : bài số 6 (cancer de la prostate précoce : surveillance)
https://www.youtube.com/watch?v=sn8cFmNiH54

VI. NHỮNG RỐI LOẠN CƯƠNG, MỘT TRIỆU CHỨNG TIM MẠCH

Không hẳn là vô hại, những panne sexuelle liên tiếp có thể báo hiệu căn bệnh của những động mạch vành.
UROLOGIE. Đó là một điều cấm kỵ, nhưng một khi được giở bỏ, có thể cứu những mạng người. Những vấn đề cương, rối loạn cương (dysfonction érectile) trong jargon médical, không được ở trong 4 bức tường của phòng ngủ. Bởi vì trong vài trường hợp, những panne sexuelle liên tiếp là hậu quả của một vấn đề mạch máu thầm lặng có thể có những hậu quả nghiêm trọng. Những nghiên cứu đã cho thấy rằng, với sự hiện diện của một loạn năng cuong, nguy cơ bị bệnh động mạch vành lúc 10 năm là tăng gấp đôi giữa 40 và 50 tuổi. Những nghiên cứu khác đã đánh giá rằng sự xuất hiện của những rối loạn này đi trước khoảng 3 năm sự xuất hiện của một vấn đề tim mạch quan trọng, như một nhồi máu cơ tim.
Trong khi một người đàn ông trên 60 tuổi trên ba và hơn một nửa những người đàn ông trên 70 tuổi bi liên hệ bởi rối loạn cương, hiếm có những người biết rằng vấn đề này có thể có một hậu quả lên sức khỏe, vượt khỏi lãnh vực tình dục. Đó là chưa kể rằng phần lớn cảm thấy khó để đề cập vấn đề tế nhị này với thầy thuốc.
Để hiểu rõ vấn đề tim mạch và vấn đề cương liên quan mật thiết như thế nào, trước hết phải nhắc lại một sự cương xảy ra như thế nào. Để đơn giản hóa, dương vật gồm hai « éponge » đầy những huyết quản được gọi là những thể hang (corps caverneux). Dưới ảnh hưởng của những tín hiệu rất phức tạp (tâm lý, kích thích tố, thần kinh, mạch máu), chúng sẽ ứ đầy máu. Kích thước của dương vật gia tăng, điều này đè ép những tĩnh mạch, ngăn cản máu thoát khỏi. Đồng thời, sự co của các cơ hiện diện trong dương vật cho phép tăng cường sự cứng của dương vật.

KHI BỘ MÁY RÍT
Nhưng có khi bộ máy này bị rít. « Khi một người bắt đầu bị xơ vữa động mạch (athérosclérose) (sự lắng của những mảng được cấu tạo chủ yếu bởi cholestérol, những athérome, trên thành trong của các động mạch), điều đó có hậu quả hạn chế luong máu lưu thông trong các động mạch, BS Ala Chebbi, chirurgien urologue và andrologue ở bệnh viện Saint-Joseph (Paris) đã giải thích như vậy. Những động mạch đầu tiên bị ảnh hưởng là những động mạch có đường kinh nhỏ hơn, những artère caverneuse của dương vật », Máu không làm đầy một cách đúng đắn các thể hang của dương vật nữa, làm cho khó có được một sự cương.
Sau đó, « athérome (vữa động mạch) sẽ làm giảm kích thước của các huyết quản qua năm tháng, BS Chebbi đã chỉ như vậy. Sau một lúc nào đó, những động mạch có đường kính lớn hơn có thể bị ảnh hưởng, điều này có thể dẫn đến những bệnh tim mạch. Một nhồi máu cơ tim không gì khác hơn là hậu quả của một sự tắc nghẽn của một động mạch vành (tưới máu tim) bởi một mảng vữa (plaque d’athérome) tách ra từ thành của động mạch. Panne sexuelle kéo dài và các bệnh tim mạch có thể là hai biểu hiện của cùng nguyên nhân, nhưng do kích thước nhỏ của chúng (1 đến 2 mm đường kính so với 3 đến 4 mm đối với những động mạch vành), những động mạch của dương vật sẽ bị ảnh hưởng sớm hơn.

Chứng nghiện thuốc lá, bệnh béo phì, tăng cholestérol huyết, cao huyết áp và đái đường không được điều trị là những yếu tố chính gây nên sự xuống cấp của các động mạch. Không những tạo điều kiện cho sự tắc nghẽn của chúng, tất cả những yếu tố nguy cơ này cũng biến đổi thành của các động mạch, làm cho chúng cứng hơn, điều này ngăn cản hơn nữa sự lưu thông mạch máu. Về bệnh đái đường, nó còn gây nên một sự hao mòn sớm của hệ thần kinh thực vật, vốn chi phối một phần sự cương và những cử động tự động khác như những đập tim hay sự hoạt động của ruột của chúng ta », BS Olivier Dupuy, trưởng khoa nội tiết-đái đường ở bệnh viện Saint-Joseph (Paris) đã giải thích như vậy.

ĐÁI ĐƯỜNG, CHOLESTEROL
Không biết những vấn đề cương của mình hay cố giải quyết chúng mà không quan tâm đến nguyên nhân của chúng vậy là một sai lầm. « Đứng trước một bệnh nhân gợi lên những vấn đề cương, nhất thiết phải phát hiện một vấn đề tim mạch và, nếu cần, điều trị nó, BS Chebbi đã nhấn mạnh như vậy. Điều đó có thể cho phép chẩn đoán một đái đường loại 2 không được biết hay một sự thặng dư cholestérol. Bằng cách điều trị những loạn năng này qua những biện pháp vệ sinh tiết thực và/hay thuốc, ta có thể kềm hãm tác động của chúng và ngăn ngừa một biển cố tim mạch trong tương lai. Đo là dieu chủ yếu.»

Dĩ nhiên, không phải tất cả những vấn đề cuong đều được gây nên bởi một vấn đề tim mạch. « Chúng có thể có nguồn gốc thực thể, tâm lý hay một pha trộn của cả hai, như đó thường là trường hợp, thầy thuốc ngoại tiết niệu đã giải thích như vậy. Chính vấn chẩn cho phép phân biệt nguồn gốc của loạn năng cương. Nếu nó xuất hiện dần dần, nếu nó được kèm theo một sự biến mất của cương buổi sáng hay buổi tối, nếu bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ liên kết và lớn tuổi, điều đó hướng về một nguyên nhân thực thể hơn » Ngược lại, nếu bệnh nhân trẻ, nếu sự xuất hiện của các rối loạn xảy ra đột ngột và nếu có một sự cương phản xạ dai dẳng vào buổi sáng, chẩn đoán nghiêng về một nguồn gốc tâm lý hơn, nhất là có thể được liên kết với một sự lo âu về hiệu năng (anxiété de performance)
Sự sử dụng của vài loại thuốc (thuốc chống cao áp, thuốc chống loạn thần, thuốc chống trầm cảm), một xơ cứng rải rác, bệnh Parkinson, những chấn thương và những tai nạn gây thương tổn vài vùng của não hay những dây thần kinh ở hố chậu, điều trị ngoại khoa của ung thư tiền liệt tuyến hay một thiếu hụt kích thích tố liên kết với tuổi tác cũng có thể là nguồn gốc của một loạn năng cương. Dầu thế nào đi nữa, nếu vấn đề kéo dài hơn 3 tháng, tốt nhất là chuyển đến một thầy thuốc tiết niệu
(LE FIGARO 15/11/2021)

VII. ĐIỀU TRỊ MÃN KINH VỚI KÍCH THÍCH TỐ THAY THẾ : TẠI SAO VÀ NHƯ THẾ NÀO ?
Rất ít phụ nữ ở Pháp được điều trị. Mặc dầu những nghiên cứu mới đây làm an lòng và những lợi ích được xác nhận.
Michel Mouly, chirurgien, gynécologue-obstétricien, oncologue à Paris

Hỏi : Ở Pháp có bao nhiêu phụ nữ mãn kinh ?
BS Michel Mouly : 12 triệu và 450.000 trường hợp mới mỗi năm. Chỉ 600.000 theo một điều trị kích thích tố (THM: traitement hormonal de la ménopause) ! Mãn kinh tự nhiên (ménopause naturelle) (ngừng sản xuất oestrogènes và progestérone bởi buồng trứng) trung bình xảy ra ở tuổi 51.

Hỏi : Những hậu quả là gì ?
BS Michel Mouly : Mãn kinh làm dễ những bệnh tim mạch, chứng loãng xương (ostéoporose), sự xuất hiện của những rối loạn nhận thức (trouble cognitif) và khí chất (trouble de l’humeur), đôi khi một trầm cảm, những rối loạn giấc ngủ, một sự lên cân, một sự giảm dục tính (libido) và sexualité (khô âm đạo), một sự lão hóa của tất cả các mô da-niêm mạc.

Hỏi : Điều trí tốt nhất là gì ?
BS Michel Mouly : Cung cấp ostrogène nhưng, để giảm thiểu mọi nguy cơ lên sức khỏe, nó phải tôn trọng những quy tắc chủ yếu.1.Ưu tiên, với liều thấp nhất có hiệu quả, đường qua da (gel, patch), trái với đường miệng, không gia tăng nguy cơ tai biến huyết khối-nghẽn mạch (accidents thromboemboliques). Những oestrogène châu Âu (ostradiol minidosé) có thời gian nhìn lại (recul) về mặt khoa học dài nhất và là an toàn nhất. 2.Để bảo vệ tử cung, nhất là chống lại ung thư nội mạc tử cung, progestérone phối hợp, bằng đường miệng hay âm đạo, là hữu ích : progestérone phải tự nhiên (naturelle) (progestérone micronisée và rétroprogestérone). Progestérone tổng hợp cần phải tránh bởi vì nó có nguy cơ huyết quản và có thể làm dễ sự biểu lộ của một ung thư vú. Khi không có tử cung, một mình oestrogène cũng đủ. 3.THM không được cho quá 7 đến 10 năm sau bắt đầu măn kinh bởi vì nó có thể có hại ! Nó phải được đề nghị và không được áp đặt sau bilan mà mọi mãn kinh đòi hỏi (khám lâm sàng, chụp tuyến vú, densitométrie osseuse, scanner coronaire nhất là ở người nghiện thuốc lá). Nó bị chống chỉ định trong trường hợp những ung thư phụ thuộc kích thích tố (cancers hormonaux dépendants) và và bệnh huyết khối-nghẽn mạch (maladies thromboemboliques)

Hỏi : Tại sao THM có tiếng xấu ?
BS Michel Mouly : Vào năm 2002, Women Health Initiative, một nghiên cứu quy mô lớn, được thực hiện trên những phụ nữ mãn kinh với tuổi trung bình 63,2 tuổi, trong đó 70% là tăng thể trọng hay béo phì và phần lớn mang những yếu tố nguy cơ (thí dụ 10% những người hút thuốc, 40% những người trước đây từng hút thuốc), đã bị dừng sớm vì lẽ một số gia tăng những tai biến tim mạch và ung thư vú. Khi đó, đó là một tsunami thế giới chống THM ! Lầm, bởi vì nghiên cứu này đã chọn lọc một quần thể các phụ nữ phần lớn có yếu tố nguy cơ, đã cho họ những thuốc uống oestrogène nồng độ mạnh và những progestatif de synthèse không được sử dụng ở châu Âu, hơn nữa được kê đơn rất xa với khởi đầu của mãn kinh, là lúc chủ yếu mà THM phải bắt đầu. Từ đó những người Mỹ đã sửa sai : vào năm 2008, một thử nghiệm lâu dài ở 70.000 y tá của Boston đã cho thấy một tác dụng bảo vệ tim mạch của THM khi nó được cho vào giai đoạn đầu của mãn kinh. Những nghiên cứu khác, châu Âu và Pháp, đã tôn trọng cửa sổ can thiệp điều trị (fenetre d’intervention thérapeutique) và những thận trọng lệ thường, đã có cùng điều chứng thực và đã quan sát thấy một sự giảm 24% nguy cơ ung thư vú so với một phụ nữ không điều trị THM.

Hỏi : Ta chờ đợi gì từ THM được kê đơn một cách đúng đắn ?
BS Michel Mouly : 1.Một sự giảm 50% tỷ lệ tử vong của ung thư vú : THM không gây nên ung thư vú nhưng phát hiện nó sớm hơn, điều này làm dễ sự phát hiện nó khi nó có kích thước nhỏ và thường có tiên lượng tốt hơn một ung thư được khám phá ở một phụ nữ không điều trị. 2. Một sự giảm của ung thư đại tràng. 3. Một sự chống lại những nguy cơ của xơ vữa động mạch. 4. Một sự cải thiện những profil lipidique và glucidique mà không lên cân. 5. Nó chống lại một cách hiệu quả sự loãng xương, những rối loạn của trí nhớ và nhận thức. 6. Nó duy trì một đời sống tình dục. THM đòi hỏi một sự theo dõi đều đặn hàng năm cho đến 65 tuổi, kéo dài nếu cần?
(PARIS MATCH 14-20/10/2021)

Đọc thêm :
– TSYH số 379, bài số 1, 2, 3, 4 (traitement substitutif hormonal)

VIII. MYÉLOME MULTIPLE (MALADIE DE KAHLER) : MỘT CÁCH MẠNG ĐIỀU TRỊ

Myélome multiple là ung thư máu đứng thứ hai về tần số. Tiên lượng của nó, ngày xưa u tối, không ngừng được cải thiện.
Philippe Moreau, professeur en hématologie au CHU de Nantes, président de l’Intergroupe francophone du myélome, directeur du site de recherche intégrée sur le cancer Nantes-Angers

Hỏi : Những tác nhân của ung thư này ?
GS Philippe Moreau : Những tế bào được gọi là tương bào (plasmocytes). Đó là một dạng tiến triển của những tế bào lympho B, những tế bào này chế tạo trong tủy xương những kháng thể của chúng ta (immunoglobulines). Myélome multiple là do sự tăng sinh của những tương bào ác tính (plasmocytes malins). 1. Những tương bào ác tính này không có một hoạt động miễn dịch nào. 2. Chúng dập tắt dần dần trong tủy xương sự tạo thành của những tế bào máu khác. 3. Chúng xói mòn những cấu trúc xương mà ở đó chúng tăng sinh. 4. Chúng sản xuất một immunoglobuline bất thường, chỉ dấu của căn bệnh (chẩn đoán và theo dõi), lưu thông trong máu và lắng xuống trong thận mà nó làm hỏng. Đó là một căn bệnh của người già (trung bình 65 tuổi), xảy ra ở hai giới tính. Nó không bao giờ xảy ra ở trẻ em.

Hỏi : Myélome multiple có thường gặp không ?
GS Philippe Moreau : incidence của nó gia tăng ở Pháp với 6000 trường hợp mới mỗi năm. Myélome multiple chiếm 10% của tất cả những ung thư máu. Những yếu tố làm dễ là sự tiếp xúc lâu dài với những thuốc trừ sâu (pesticide)(được công nhận là bệnh nghề nghiệp ở những nông gia) và những rayon inonisant.

Hỏi : Nó được phát hiện như thế nào ?
GS Philippe Moreau : Có nhiều dấu hiệu báo động. Đó nhất là, ở cột sống và khung chậu, những đau xương chống lại những điều trị thông thường. Chúng do những phá hủy xương (do đó một nồng độ calcium trong máu tăng cao). Sau đó, theo thứ tự tần số, mệt dữ dội, suy thận, những nhiễm trùng vi khuẩn liên tiếp. Cũng có thể đó là những biến chứng xương : những lún đốt sống, gãy xương của cột sống, xương chậu, xương đùi hay của xương cánh tay.

Hỏi : Bilan gồm những gì ?
GS Philippe Moreau :Electrophorèse của các protéine trong máu cho thấy pic monoclonal điển hình của immunoglobuline bất thường. Một myélogramme, sau lấy mẫu nghiệm của tủy xương dưới gây tê tại chỗ, xác nhận căn bệnh bằng cách cho thấy một sự quá mức của những tương bào ác tính. Sự phân tích các nhiễm sắc thể của chúng cho phép phân biệt những thể có tiên lượng xấu (25% các trường hợp) với những thể khác. Chụp hình ảnh bằng scanner, IRM và nhất là Pet-scan bổ sung bilan và góp phần vào sự theo dõi.

Hỏi : Ông gọi gì cách mạng điều trị?
GS Philippe Moreau : Trong thời gian lâu, hóa trị (melphalan) liên kết với corticoide (prednisone), duy nhất sẵn có, đã chỉ đảm bảo những thuyên giảm. Trong những năm 1980-1990, sự cho melphalan liều cao, tiếp theo sau bởi một autogreffe tủy xương (ở những bệnh nhân dưới 70 tuổi), đã cải thiện nhiều tiên lượng và vẫn luôn luôn hữu hiệu. Từ những năm 2000, sự thêm vào những điều trị ngày càng nhắm đích đã con cho phép tiến triển với : 1. Sự sử dụng immunomodulateur (những dẫn xuất của thalidomide kềm hãm sự tăng trưởng của ung thư) và các inhibiteur du protéasome (organite intracellulaire tiêu hóa những protéine bất thường). Sự phong bế của protéasomegây nhiễm độc và giết chết những tế bào ung thư, nhưng không những tế bào lành mạnh, phản ánh những tác dụng phụ (thí dụ nhưng rối loạn cảm giác của các chi), có thể đảo ngược bằng cách điều biến các liều. 2. Những kháng thể đơn dòng, tấn công một cách đặc hiệu những tế bào ung thư và sinh ít tác dụng phụ hơn. 3. Mới đây hơn, sự nhờ đến một miễn dịch liệu pháp, sử dụng những tế bào lympho T của bệnh nhân, được lấy và biến đổi trong phòng thí nghiệm để chúng nhận biết một cách đặc hiệu những tương bào ác tính. Khi đó chúng trở thành những CAR-T cells, lúc được tiêm vào lại cho bệnh nhân và bằng một liều duy nhất, giết các tương bào bào bất thường. 4. Ta cũng có những kháng thể đơn dòng hai đặc hiệu (anticorps monoclonal bispécifique) có hai tay : một gắn vào một protéine de surface của những tương bào ác tính, tay kia kích hoạt một lymphocyte tueur để tiêu diệt chúng. Hiệu quả của tất cả những điều trị phối hợp này là ngoạn mục ; một cuộc cách mạng khiến hy vọng sự chữa lành ít nhất một bệnh nhân trên hai trong những năm đến.
(PARIS MATCH 7-13/10/2021)

IX. DRÉPANOCYTOSE : ĐIỀU TRỊ
Đó là một căn bệnh di truyền rất hiện diện ở Pháp. Sống nặng nề, hôm nay drépanocytise được điều trị tốt hơn.
Professeur Mariane de Montalembert, hôpital Necker-Enfants malades (Paris), directrice du Réseau francilien de soin des enfants drépanocytaires

Hỏi : Drépanocytose là gì ?
GS Mariane de Montalembert. Đó là một bệnh của hémoglobine (Hb), phân tử mang oxygène trong các hồng cầu. Bệnh do một sự biến dị di truyền thừa hưởng từ cha mẹ, làm cho một hémoglobine bất thường được gọi là hémoglobine S (HbS) chiếm đa số ở trong các con của họ. Đôi khi HbS được liên kết với một biến dị bất thường khác của hémoglobine (thí dụ HbC). Những người mang chỉ một bản sao của HbS không bị bệnh nhưng có thể truyền gène này cho các con mình. HbS có thể gây nên một biến dạng hình lưỡi liềm (falciformation) của hồng cầu khiến hồng cầu mất tính mềm mại của nó và không len lõi nữa trong những huyết quản nhỏ để phóng thích oxygène : các mô bị bệnh (các con đâu, những nhiễm trùng). Ngoài ra những hồng cầu mảnh dẻ và vỡ (dung huyết), do đó bị thiếu máu. Mới đây người ta đã khám phá rằng những tế bào hình lưỡi liềm dính vào những tế bào khác của máu và và những huyết quản nhờ những phân tử được gọi là sélectine. Cơ chế dính này tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những tắt mạch đôi khi nghiêm trọng, cũng như một tình trạng viêm toàn thể.

Hỏi : Đó có phải là một bệnh phổ biến ?
GS Mariane de Montalembert. Bệnh này rất thường gặp ở châu Phi đen và ở Ấn độ, cũng hiện diện ở Bắc Phi và ở Cận Đông. Sự xuất hiện của nó được làm dễ về mặt di truyền bởi bệnh sốt rét mà nó làm giảm nhẹ tác động. Sự di tản dân số đã mang lại ở châu Âu và ở Hoa Kỳ nhiều người mang gène biến dị. Vào năm 2020, hơn 500 trẻ em được sinh ra với bệnh này ở Pháp, vả lại hiện có 30.000 bệnh nhân bị drépanocytose.

Hỏi : Những dấu hiệu lâm sàng và những biến chứng làgì ?
GS Mariane de Montalembert. Ngoài những biểu hiện của nó, căn bệnh không thể thấy được. Những biểu hiện thường gặp nhất là những cơn đau xuất hiện trung bình ở năm 2 tuổi. Mức độ nghiêm trọng và tần số xuất hiện của chúng biến thiên nhiều theo các bệnh nhân. Những nhiễm trùng đôi khi rất nghiêm trọng có thể là biến chứng. Muộn hơn, ta sợ nhất là những tắc mạch máu. Sự lặp lại trong thời gian sinh ra một sự thiếu oxygène mãn tính hay ác tính và một tình trạng viêm làm hỏng mạng tuần hoàn và vài cơ quan quan trọng. Suy thận và/hay hô hấp và/hay tim, sự xuất hiện tai biến mạch máu não là những nguyên nhân chính gây tử vong của các bệnh nhân ở tuổi trưởng thành.

Hỏi : Điều trị như thế nào ?
GS Mariane de Montalembert. Tránh lạnh, tránh mất nước, dùng các kháng sinh (pénicilline) mỗi ngày, tiêm chủng chống những phế cầu khuẩn và não cầu trùng ngoài những tiêm chủng thông thường là những biện pháp phòng ngừa cơ bản. Ở những phụ nữ có thai đến từ những nước nguy cơ, một sự phát hiện hệ thống căn bệnh là điều nên làm. Để điều trị ta sử dụng những thuốc chống đau, truyền máu cấp cứu hay kinh điển tùy theo các trường hợp, hydroxyurée (còn được gọi là hydroxycarbamide) do tác dụng chống sự tạo thành những hồng cầu hình lưỡi liềm. Trong những thể nặng, ghép tủy xương là hiệu quả nếu những nhóm mô cho-nhận (donneur-receveur) (hệ HLA) là giống hệt nhau (20% những trường hợp). Ở Pháp hiện có những thuốc mới, nhất là một ani-sélectine (crizanluzimab) để chống lại sự dính của những tế bào máu vào các huyết quản và, voxelotor có tác dụng làm vững HbS trong một thể có ái tính cao đối với oxygène.

Hỏi : Những trị liệu trong tương lai là gì ?
GS Mariane de Montalembert. Liệu pháp gène mang lại một hy vọng lớn. Nó có thể thêm vào một gène chống lại sự tạo thành các hồng cầu lưỡi liềm hay, qua kỹ thuật của những kéo di truyền (Crispr-Cas9), tác động lên gène của drépanocytose hay trên những gène điều hoà sự vận hành chức năng của nó.Những kết quả sơ khởi đầy hứa hẹn đã có được.
(PARIS MATCH 22-28/7/2021)

X. RUỘT THỪA LÀ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI TUỔI THỌ

Ruột thừa bảo vệ chống lại ỉa chảy nhiễm khuẩn (diarrhées infectieuses), nguyên nhân quan trọng của tử vong ở những động vật có vú, kể cả con người.
ANATOMIE. Được biết nhất là vì những cơn ruột thừa viêm cần cắt bỏ nó và từ lâu được xem như một cục bướu (excroissance) không có chức năng đối với cơ thể, ruột thừa (appendice) cuối cùng tìm thấy cương vị của mình. Theo một nghiên cứu của Inserm và của Museum national d’histoire naturelle, cơ quan bé xíu này, dính vào ruột già và hiện diện ở nhiều động vật có vú, đã xuất hiện ít nhất 16 lần trong quá trình tiến hóa. Dấu hiệu cho thấy rằng nó mang lại một ưu thế chọn lọc cho những người sở hữu nó. Bắt đầu từ phân tích 317 động vật có vú trong đó 43 mang một ruột thừa, các nhà nghiên cứu cho thấy trong Journal of Anatomy rằng cùng kích thước như nhau, những loài có ruột thừa sống lâu hơn những loài khác. Một tuổi thọ có thể là do một sự bảo vệ tốt hơn chống lại những ỉa chảy nhiễm khuẩn, nguyên nhân quan trọng của tử vong ở những động vật có vú, kể cả con người. Thật vậy, những vi khuẩn cư ngụ trong ruột thừa được bảo vệ và sau đó có thể tái xâm thực ruột bị hỏng. Theo các tác giả, ta hãy an lòng, sự cắt bỏ cơ quan này là không hậu quả khi nó xảy ra sau một ruột thừa viêm.
(SCIENCES ET AVENIR 9/2021)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(1/12/2021)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s