Thời sự y học số 584 – BS Nguyễn Văn Thịnh

I. NHƯNG THUỐC ĐIỀU TRỊ CHỐNG VIRUS ĐƯỢC DỰ KIẾN TỪ NAY ĐẾN CUỐI NĂM

Trong khi sự chú ý được tập trung vào các vaccin, các labo và biotech tiếp tục theo đuổi nghiên cứu.

Một trong những điều trị tương lai chống virus có thể là của Pháp. Thật vậy, biotech nantaise Xerothera nghiên cứu một loại thuốc dựa trên các kháng thể đa dòng dành cho những bệnh nhân bị Covid thể trung bình để tránh, nhật là, mot sự chuyển vào phòng hồi sức. Những kết quả của những thử nghiệm giai đoạn 2 của XAV-19, một thuốc điều trị với một liều duy nhất bằng đường tiêm, được dự kiến vào cuối tháng chín 2021. Xenothera, đã bán 30.000 liều cho Pháp, tin tưởng vào một sự có sẵn để sứ dụng vào cuối năm.

Mặc dầu những tiến bước của tiêm chủng trên khắp thế giới, những áp lực không kém đi trong các hãng dược phẩm và biotech để hiệu chính những điều trị chống Covid. Vũ khí điều trị vẫn còn rất hạn chế đứng trước virus. Thế mà với sự tiến triển của biến thể Delta và khả năng xuất hiện của những biến dị mới trong những tháng đến, những thuốc điều trị là cần thiết để trừ khử đại dịch.

Vào cuối tháng tám 2021, 318 thuốc điều trị và vaccin đã vào giai đoạn 2 hay 3 của phát triển lâm sàng, theo Statista. Trong số chúng khoảng 10 thuốc nằm trên đường nhắm, với một hy vọng được thương mãi hóa trong những tháng đến. Trên Cựu lục địa, Commission européenne đã cam kết cho phép 3 thuốc điều trị từ nay đến mùa thu. Vài thuốc được dùng để phòng ngừa như AZD7442, một cocktail các kháng thể đơn dòng, được phát triển bởi labo Anh-Thụy Điển AstraZeneca, cũng là nguồn gốc của một vaccin chống Covid. Theo những kết quả đáng phấn khởi được công bố cuối tháng tám, nó cho phép giảm mạnh nguy cơ phát triển một thế triệu chứng của bệnh ở những bệnh nhân yếu ớt và mang lại sự bảo vệ kéo dài đến một năm.

Molnupiravir, được phát triển bởi hãng MSD (Merck Sharp & Dohme) của Hoa Kỳ và biotech Ridgeback Biotherapeutics, được xem như một trong những thuốc kháng virus hứa hẹn nhất chống Covid. Được dự kiến ban đầu chống lại cúm, molnupiravir nhắm vào enzyme của virus có nhiệm vụ nhân đôi ARN của nó, chứ không phải nhắm vào chính virus. Thuốc này có ưu điểm là được cho dưới dạng thuốc viên (hai lần mỗi ngày trong năm ngày). Trong giai đoạn hai của các trắc nghiệm, thuốc đã làm giảm một cách đáng kể charge virale ở những bệnh nhân sau 5 ngày điều trị. MSD, hy vọng trình những kết quả đầu tiên của giai đoạn 1 vào tháng mười, đã cam kết cung ứng 1,7 triệu liều cho chính phủ Hoa Kỳ với giá 1,2 tỷ dollar. Ngoài ra hãng đã ký kết những thỏa thuận với nhiều hãng đấu thầu Ấn Độ để đảm bảo sự sản xuất của thuốc dành cho Ấn Độ và những nước có lợi tức thấp.

Actemra, của hãng dược phẩm Thụy Sĩ, một kháng thể đơn dòng, ban đầu được phát triển cho bệnh viêm đa khớp dạng thấp (PCE), đã được chuẩn thuận ở Hoa Kỳ và được khuyến nghị bởi OMS. Nó đã gây nên những hy vọng lớn vào mùa xuân 2020 trước khi làm thất vọng sau nhiều bất lợi trong những thử nghiệm đầu tiên. Cơ quan dược phẩm châu Âu đã bắt đầu đánh giá nó vào giữa tháng tám. Mặc dầu những kết quả được dự kiến vào giữa tháng mười, nhưng tháng vừa qua hãng nói sợ những “đứt gãy củanhững dự trữ tạm thời” vì nhu cầu rất cao.

THUỐC ĐIỀU TRỊ RẤT HỨA HẸN CỦA GSK.

Một cách song hành, Roche cũng nghiên cứu một thuốc chống virus khác rất được trông chờ, AT-527, với hãng dược phẩm Hoa Kỳ Atea Pharmaceuticals, nhắm một enzyme của Sars-CoV-2. Atea dự kiến xin một giấy phép thương mãi hóa từ nay đến cuối năm để phát động vào năm 2022.

Pfizer, đã khiến nói nhiều về nó với vaccin chống Covid, cũng đang nghiên cứu một thuốc điều trị bằng đường miệng. Albert Bourla, PDG, hy vọng rằng trong trường hợp thành công của những thử nghiệm lâm sàng, thuốc sẽ có để sử dụng từ nay đến cuối năm 2021. Thuốc này, ở giai đoạn 2 của thử nghiệm lâm sàng, thuộc về loại các inhibiteur để protéase, đã từng được sử dụng để chống lại những virus khác như VIH. Nó nhằm cản tác dụng của một enzyme của coronavirus cần thiết cho sự nhân đôi của nó.

Hãng dược phẩm Anh GSK, chế tạo chất bổ trợ (adjuvant) của vaccin chống Covid de Sanofi, cũng bắt tay tìm kiếm một thuốc điều trị, với biotech Vir. Sotrovimab, một kháng thể đơn dòng, được dành cho những bệnh nhân có nguy cơ tiến triển thành một thể nặng. Kháng thể này móc vào một phần của protéine Spike ít khả năng biến dị. Điều này cho phép nó tạo một hàng rào đề kháng với các biến thể hiện nay hay sẽ trổi dậy. Bruxelles đã xếp loại nó trong số 5 sản phẩm hứa hẹn nhất chống Covid. Một đơn xin phép sẽ được trình cho EMA vào tháng chín.

(LE FIGARO 1/9/2021)

Đọc thêm :

TSYH số 583 : bài số 6

II. SỰ TRANH CÃI VỀ LIỀU THỨ BA

Trong khi các nước giàu đạt đến những tỷ lệ tiêm chủng dao động giữa 60 và 70% (68% ở Bỉ), sự tăng cao của tỷ lệ lây nhiễm khiến vài quốc gia tiêm một liều vaccin thứ ba cho những công dân của mình. Một quyết định được đánh giá không cần thiết bởi OMS, chủ trương sự công bằng trong tiếp cận với các vaccin, để cho phép những người dân của những nước thuộc thế giới thứ ba cũng được tiêm chủng.

Ở Bỉ, liều nhắc lại (liều thứ ba hay thứ hai tùy theo vaccin) sẽ được đề nghị cho những bệnh nhân suy giảm miễn dịch bắt đầu từ tháng chín 2021. Đức đi một bước xa hơn, và sẽ đề nghị, cũng bắt đầu từ tháng chín, một tiêm nhắc lại không những cho những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, mà còn cho những người già và những người dễ bị thương tổn.

Ở Hoa Kỳ và ở Israel, liều nhắc lại sẽ còn được sử dụng cho nhiều bệnh nhân hơn. Ở Hoa Kỳ, liều thứ ba sẽ được tiêm cho toàn thể dân chúng, tám tháng sau liều thứ hai, và ở Israel sẽ được dùng cho những người trên 40 tuổi. Joe Biden biện minh cho chiến lược của Mỹ. “Đó là cách tốt nhất bảo vệ chúng ta chống lại những biến thể mới có thể xuất hiện, tổng thống Hoa Kỳ đã đánh giá như vậy. Chúng ta có thể vừa săn sóc dân Mỹ đồng thời giúp đỡ thế giới.”

HỮU ÍCH, LIỀU THỨ BA ?

Lợi ích của một liều thứ ba không tạo sự nhất trí ở các nhà khoa học. Nhưng ta có biết đủ về điều đó để quyết định dứt khoát ? Đại học Oxford mới đây đã đánh giá tính hiệu quả các các vaccin lên các biến thể. Theo các nhà nghiên cứu, đó là nghiên cứu đầu tiên “cho thấy sự bảo vệ chống những nhiễm bởi Covid-19 tiến triển theo thời gian như thế nào sau một tiêm chủng lần hai ở một nhóm lớn những người trưởng thành của population générale”. Kết quả là các vaccin luôn luôn cho một bảo vệ tốt đứng trước những nhiễm mới của biến thể Delta, nhưng tính hiệu quả bị giảm so với biến thể Alpha. Ngoài ra, vaccin Pfeizer, mặc dầu lúc đầu hiệu quả hơn chống lại những nhiễm mới, nhưng mất tính hiệu quả nhanh hơn vaccin AstraZeneca. Dẫu sao các kết quả “gợi ý rằng sau 4 đến 5 tháng, tính hiệu quả của hai vaccin này là tương tự nhau ; tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nói rằng những hiệu quả trong thời gian dài hạn phải được nghiên cứu”. Vắn tắt, ta vẫn không biết nhiều hơn về thời gian bảo vệ mà các vaccin của những hãng dược phẩm khác nhau mang lại, cũng như về sự hữu ích của một liều thứ ba.

TRƯỜNG HỢP ISRAEL

Để tìm một câu trả lời sơ bộ cho câu hỏi, vài người hướng về Israel, quốc gia tiền phong về tiêm chủng, nhưng cũng là nước đầu tiên cho một liều thứ ba ở những người yếu ớt để chống lại sự tái phát dịch bệnh do biến thể Delta. Israel đã đi trước vài tuần trong chiến dịch tiêm chủng, cũng như sự thành công của nước này (60% những người hoàn toàn được tiêm chủng, trong đó 90% nhưng người trên 55 tuổi) cho phép rút ra vài bài học.

Bài học chính phát xuất từ một con số gây ngạc nhiên : 60% những trường hợp nhập viện đều được tiêm chủng. Phải chăng điều đó trùng hợp với một sự giảm hiệu quả của vaccin Pfeizer ? Không, Jeffrey Morris, chuyên gia thống kê sinh học (biostaticien) và giám đốc của Division de biostatistique của Trường y của đại học Pennsylvanie đã đánh giá như vậy. Có một sự khác biệt lớn về tuổi trong những tỷ lệ tiêm chủng, những người già được tiêm chủng nhiều hơn. Những người này có một nguy cơ nhập viện nội tại cao hơn khi họ bị nhiễm bởi một virus hô hấp. Điều luôn luôn quan trọng là phải phân tầng những kết quả theo tuổi, nếu không, tính hiệu quả toàn bộ sẽ bị lệch về phía dưới và sẽ cho một biểu thị xấu về tính hiệu quả của vaccin trong phòng ngừa các bệnh nặng.”

CÙNG THÁI ĐỘ Ở BỈ

Cùng thái độ, và cùng kết luận, đã được thực hiện bởi Michel Goldman, giáo sư miễn dịch học ở ULB của Bỉ : “Phải dè chừng các con số”, ông đã bảo như vậy. “ Vài con số bị giải thích sai gieo rắc sự lẫn lộn và rất có thể duy trì sự do dự tiêm chủng.”

Như thế, con số 98% của những người không được tiêm chủng trong số những người được nhập viện từ tháng giêng 2021 được nêu rõ bởi những người dành một tầm quan trọng đặc biệt cho một sự phân bố công bằng hơn của các vaccin cho tất cả mọi người hơn là một sự tiêm nhắm đích của một liều thứ ba để chữa tạm sự suy yếu của những đáp ứng miễn dịch theo dòng thời gian. Đồng thời, con số 30% của những người hoàn toàn được tiêm chủng trong số những trường hợp nhập viện mới (ở Bỉ) được sử dụng bỏi những người chủ trương theo chính sách tiêm chủng đại trà liều thứ ba để hạn chế những nguy cơ của một làn sóng mới dẫn đến những biện pháp hạn chế mới.

“ Sự trái nhau về các con số chỉ là bề ngoài. Nó được giải thích dễ dàng bởi nhiều yếu tố, trong đó tỷ lệ không phải nhỏ (khoảng 20%) của những người trưởng thành không được tiêm chủng, vẫn còn là đa số của các trường hợp nhập viện, điều này xác nhận một cách rõ ràng tính hiệu quả cao của vaccin để bảo vệ chống lại những thể nặng và phải khuyến khích theo đuổi cố gắng hiện hành để gia tăng hơn nữa tỷ lệ tiêm phủ vaccin”. GS Goldman thêm rằng vài người mặc dầu được tiêm chủng hoàn toàn nhưng không được hoặc kém được bảo vệ do một sự vận hành xấu của hệ miễn dịch của họ. Đó là 400.000 người suy giảm miễn dịch hiện sẽ nhận một liều thứ ba, nhưng cũng có những lão niên nạn nhân của sự lão hóa của hệ miễn dịch của họ : hiện tượng này (immunosénescence) gia tăng giữa 60 và 80 tuổi. Nó dẫn đến một sự giảm nhanh hơn của sự bảo vệ tiep theo sau các tháng sau tiêm chủng ở những lão niên so với những người trưởng thành trẻ”.

Vậy phải dự kiến rằng tỷ lệ những người được tiêm chủng trong số những người nhập viện gia tăng trong những tuần đến, nhất là nếu ta không bảo vệ các lão niên bằng một liều thứ ba, bắt đầu ở những người già nhất và những người đã được tiêm chủng vào đầu chiến dịch tiêm chủng.

NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CHÍNH TRỊ

Vắn tắt : một mũi tiêm nhắc lại là cần thiết trong vài trường hợp, đối với những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, có những bệnh nền hay sự lão hóa miễn dịch (immunosénescence). Nhưng ta thấy điều đó trong sự chia từng chăng của những biện pháp ở mức quốc tế : khoa học không là người chỉ đường duy nhất của những quyết định chính trị. Đó là ý kiến, nhất là, của OMS. “ Chúng tôi nghĩ một cách rõ ràng rằng những dữ liệu hiện nay không chỉ rằng những liều nhắc lại là cần thiết ”, nhà khoa học trưởng của OMS, Soumya Swaminathan, đã tuyên bố như vậy, trong một buổi họp báo ở Genève tuần qua.

Tiêm một liều thứ ba bây giờ có nghĩa là “ phân phát những gilet de sauvetage bổ sung cho những người đã có một, trong khi chúng ta để những người khác bị chết chìm mà không có một gilet de sauvetage nào ”, directeur des urgences của OMS, Mike Ryan, đã nói như vậy. “ Có đủ vaccin trên thế giới, nhưng chúng không đến đúng nơi theo đúng thứ tự, BS Bruce Aylward, phụ trách hồ sơ Covax ở OMS đã kết luận như vậy.

(LE JOURNAL DU MÉDECIN 26/8/2001)

Đọc thêm :

TSYH số 583 : bài số 2, 3, 4
TSYH số 582 : bài số 2
TSYH số 581 : bài số 3
TSYH số 573 : bài số 4

III. MỘT LIỀU THỨ BA VỚI VACCIN CHỐNG CÚM ?

“ Một liều thứ ba của vaccin Covid, lý tưởng phối hợp với vaccin chống cúm, có lẽ được chỉ định trong một nhóm đích (groupe-cible) của những người già, bị những rối loạn miễn dịch hay dễ bị thương tổn.”

Chưa có một sự nhất trí nào trong đất nước chúng ta (Bỉ) về một liều thứ ba của vaccin Covid. Chỉ một nhóm giới hạn của những bệnh nhân có nguy cơ sẽ được tiêm chủng. Theo GS Peter Piot, chuyên gia virus học lỗi lạc, liều thứ ba này là cần thiết.

MỘT SỰ ĐÚNG LÚC.

Một sự theo dõi các vaccin xác nhận rằng chúng hiệu quả, nhưng không phải ở tất cả mọi người. “ Có một immunosénescence làm cho những người 70, 80 tuổi,…được bảo vệ ít lâu hơn. Cũng vậy đối với những người dễ bị thương tổn hay nạn nhân của những rối loạn miễn dịch, Peter Piot đã giải thích như vậy. Ông dự kiến “liều thứ ba” này trong một triễn vọng hành tinh. “ Nếu tất cả các vaccin bị ngốn bởi châu Âu và Hoa Kỳ, sẽ không còn nữa cho những nước khác, điều này không nên làm. Vậy một chính sách hợp lý sẽ chỉ nhắm vào những người dễ bị thương tổn.”

Rất có thể rằng các vaccin Covid và influenza có thể được cho đồng thời mà không gây thêm những tác dụng phụ. “ Bộ trưởng Anh phụ trách về tiêm chủng đã loan báo như vậy ; một cách lý tưởng, vaccin Covid sẽ được tiêm vào tay trái, vaccin chống cúm sẽ được tiêm vào tay phải. Những kết quả đầu tiên của nghiên cứu xác nhận rằng điều đó có hiệu quả.”

Kinh nghiệm tích lũy với vaccin chống cúm cũng cho một cơ hội tốt để gia tăng tỷ lệ tiêm phủ (thấp hơn nhiều tỷ lệ của vaccin Covid), nhà virus học đã nhận xét như vậy.

CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ

Mặc dầu GS Piot chào mừng tính chất nhanh chóng của sự phát triển của các vaccin, nhưng ông cũng hơi thất vọng về những tiến bộ điều trị. Ông trở lại về kinh nghiệm bệnh nhân của riêng ông, vào tháng ba, tháng tư 2020. “ Tất cả là mới và ta không biết rõ lắm làm sao tiếp cận sự điều trị. 18 tháng sau, tỷ lệ tử vong sụt xuống nhưng điều trị rõ ràng vẫn là phức tạp. Dĩ nhiên lý tưởng là cắt đường đi của virus trước khi nhiễm phát triển.”

Một cách lý tưởng, một điều trị chống Covid-19 phải nhắm rộng. Vẫn còn nhiều việc phải làm đối với remdésivir, nhưng ở Flandre chúng ta có hai con chủ bài quan trọng. Thứ nhất là Exevir, một spin-out của Viện công nghệ sinh học VIB, phát xuất từ nhóm nghiên cứu Xavier Staelens của Gant, mà những nanoparticule VHH có năng lực chống lại những coronavirus khác nhau.

Peter Piot cũng nêu lên Viện Rega ở Louvain, đã nhận diện và phát triển những thuốc chống virus trong quá khứ và ở đó nhóm của Johan Neyts rất tích cực trong lãnh vực này.Tuy nhiên ông không dự kiến những kết quả ngoạn mục từ nay đến 2022.

Ở một giai đoạn muộn hơn của bệnh, chính hệ miễn dịch phải được kiểm soát. Thí dụ dexaméthasone là hiệu quả, nhưng nó không thể được cho quá sớm nếu không thì sự đề kháng với nhiễm trùng nói riêng bị suy mon. Điều đó rất phức tạp.

SỰ HỢP TÁC CẦN THIẾT

Sự bao gồm của tất cả những bệnh nhân Covid của một bệnh viện trong những thử nghiệm lâm sàng mang lại một cơ hội tuyệt vời để phát triển các thuốc điều trị. “ Điều đó cho phép có sẵn một cách nhanh chóng một số lượng đủ các bệnh nhân. Đó là một trong những con chủ bài lớn của National Health Service của Anh, mặc dầu dĩ nhiên đó không bao giờ là một sự bắt buộc và rằng mọi người vẫn tự do từ chối.”

Dẫu sao đi nữa, điều quan trọng là đạt được một sự cộng tác tốt hơn giữa các bệnh viện và với những kíp nghiên cứu lâm sàng. “ Sự cộng tác này phải được kích thích bởi chính quyền : những người chấp nhận cộng tác nhận những phương tiện tài chánh, những người không chấp nhận sẽ không có gì. Cũng như vậy trên bình diện châu Âu, đối với nghiên cứu cơ bản nhưng cũng đối với những thử nghiệm lâm sàng. Mỗi người chỉ nghĩ đến mình, điều đó không chạy việc.”

“ CỰC KỲ LO NGẠI ”

GS Piot nói “vô cùng quan ngai” rằng rất nhiều nước đã nới lỏng những biện pháp Covid trong mùa hè. Mùa đông sắp đến cũng khiến ông quan ngại. “ Mùa đông 2020, cúm đã vẫn gần như vắng mặt sau những biện pháp được thực hiện trong khung cảnh Covid, điều này đã tạo một khoảng trống miễn dịch (vide immunologique) mà năm nay ta sẽ cảm thấy những hậu quả của nó. Chúng ta phải tuyệt đối chuẩn bị điều đó, thí dụ bằng cách tăng cường sự tiêm chủng influenza.”

(LE JOURNAL DU MÉDECIN 26/8/2021)

IV. BỆNH NẶNG HƠN VỚI BIẾN THỂ DELTA

Theo một nghiên cứu của Anh, chủng này gia tăng nguy cơ nhập viện của những người không tiêm chủng.

Càng ngày càng nhiều nghiên cứu chứng tỏ một tính chất nguy hiểm gia tăng của biến thể Delta. Theo nghiên cứu mới nhất được công bố 27/8 trong tạp chí The Lancet Infectious Diseases, tỷ lệ nhập viện của những người bị nhiễm bởi biến thể Delta là gấp đôi so với một nhiễm bởi chủng Alpha. Biến thể Delta là một dạng biến dị của SARS-CoV-2, được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ vào tháng mười năm 2020. Lây nhiễm hơn nhiều chủng trước nó, biến thể Delta đã trở thành dạng thống trị của virus trên thế giới. Ở Pháp, vào 3/8/2021, nó chiếm 98,1% những trường hợp Covid-19, theo Santé publique France.

Nếu tính lây nhiễm gia tăng của biến thể Delta là chắc chắn, ngược lại mức độ độc lực của nó vẫn luôn luôn được bàn luận. Đối với nghiên cứu này, những équipe của đại học Cambridge đã phân tích những dữ liệu của 43.338 người trắc nghiệm dương tính Covid-19, ở Vương quốc Anh, giữa 29/3 và 23/5/2021. Statut vaccinal, tuổi tác và những yếu tố dân số cũng như những nhập viện đã được sàng lọc từ phân tích của họ. Có 51,1% những phụ nữ và 48,9% những người đàn ông ; 30% dưới 20 tuổi ; 54,6% tuổi từ 20 và 50 tuổi và chỉ 6,2% trên 60 tuổi.

UNE SURRISQUE PROBABLE

Các tác giả đã thống kê 34.656 trường hợp biến thể Alpha (80% các bệnh nhân), chiếm đa số ở Vương quốc Anh vào đầu nghiên cứu, và 8682 trường hợp biến thể Delta (20% các bệnh nhân). Những tỷ lệ của biến thể Delta đã không ngừng gia tăng trong thời kỳ theo dõi, đạt 65% tuần qua.

Những tỷ lệ nhập viện cho một ý tưởng tốt về độc lực của coronavirus : chính sự trầm trọng của bệnh ảnh hưởng sự nhập viện. Tổng cộng, 2,2% những người bị nhiễm bởi biến thể Alpha đã phải bị nhập viện (764 người, trên một toàn thể 34.656) trong hai tuần lễ tiếp theo sau test positif, so với 2,3% những người bị nhiễm bởi biến thể Delta (196 người, trên một tổng cộng 8682). Nhưng hai nhóm không có thể so sánh nhau một cách nghiêm túc : những người bị nhiễm bởi biến thể Delta là trẻ hơn, sống trong những khu phố nghèo nàn hơn và thuộc về một chủng tộc Ấn độ. Để so sánh chúng, các tác giả đã phải làm một phân tich thống kê phức tạp (được gọi là “régression de Cox stratifiée”). Kết quả : biến thể Delta nhân 2,26 nguy cơ nhập viện so với biến thể Alpha. “ Đó là nghiên cứu thứ ba phân tích tính nghiêm trọng của bệnh liên kết với biến thể Delta, Mahmoud Zureik, giáo sư dịch tễ học và y tế công cộng ở đại học Versaille Saint Quentin-en-Yvelines, đã chỉ như vậy. Tất cả các nghiên cứu đều đi theo cùng chiều hướng : chúng chỉ một surrisque liên kết với biến thể này.” Một nghiên cứu sơ bộ của Ecosse, được công bố 14/6 trong tạp chí The Lancet, chỉ một nguy cơ nhập viện gia tăng 85% với biến thể mới này so với biến thể Alpha.

NGUY CƠ TỬ VONG GIA TĂNG

Một nghiên cứu của Canada, được đưa lên mạng trên site de prépubliccation MaedRxiv, tìm thấy một nguy cơ nhập viện gia tăng 50%, một nguy cơ vào ICU trên 80% và một nguy cơ tử vong gia tăng 50% so với tất cả những biến dị khác của SARS-CoV-2.

Tuy nhiên, theo M.Zureik, những đánh giá này phải được xác nhận và định rõ trên nhiều bệnh nhân hơn. Bởi vì, mặc dầu kích thước đầy ấn tượng của mẫu nghiệm Anh, số những nhập viện được phân tích vẫn không nhiều.

Nghiên cứu Anh cho một thông tin quan trọng khác : trong số tất cả những người được trắc nghiệm dương tính với Covid-19, dầu cho biến thể là gì, chỉ 1,8% được tiêm chủng hoàn toàn (794 trường hợp trên 43.338) ; 24% đã chỉ nhận một liều vaccin (10. 466 trường hợp), và 74% đã không hề được tiêm chủng (32.078 trường hợp). “Mặc dầu vào thời kỳ này, 40% đến 50% dân chúng Anh được tiêm chủng, dưới 2% những người bị nhiễm bởi coronavirus trong nghiên cứu này được tiêm chủng hoàn toàn”, Mahmoud Zureik đã ghi chú như vậy.

“Theo phân tích của chúng tôi, nếu không có tiêm chủng, mọi dịch bệnh của biến thể Delta sẽ gây nên một áp lực lên hệ y tế mạnh hơn một dịch bệnh của biến thể Alpha, Anne Pressanis, đồng tác giả của nghiên cứu Anh đã nhấn mạnh như vậy. Được tiêm chủng hoàn toàn là một điều kiện chủ yếu để làm giảm nguy cơ cá nhân nhiễm triệu chứng bởi biến thể Delta, nhưng cũng nguy cơ bị bệnh nặng và phải nhập viện.

(LE MONDE 30/8/2021)

V. CÁC VACCIN VẪN HIỆU NĂNG CHỐNG LẠI NHỮNG THỂ NẶNG CỦA NHIỄM CORONAVIRUS

Lây nhiễm hơn và độc lực hơn, biến thể Delta cũng hơi đề kháng hơn với những vaccin hiện nay. Mặc dầu ta quan sát những biến thiên về mức độ bảo vệ mà vaccin mang lại tùy theo những công nghệ được sử dụng (những vaccin à ARN messenger dường như hơi hiệu nặng hơn những vaccin à adénovirus), tuy nhiên những vaccin này vẫn hiệu quả đối với hơn 2/3 và, nhất là chúng bảo vệ chống lại nguy cơ bị thể nặng của Covid.

Về nguy cơ truyền virus mặc dầu tiêm chủng, nó cũng yếu hơn nhiều (52% đến 62% yếu hơn, theo những dữ liệu mới nhất của Viện y tế công cộng Bỉ Sciensano). Mặc dầu không phải là số không.

1. Các vaccin vẫn hiệu quả chống biến thể Delta ở mức độ nào ?

Nhiều nghiên cứu khoa học, được đăng tuần này ở Anh và Hoa Kỳ, báo cáo một sự bảo vệ tối thiểu 2/3 (từ 74% đến 67%, tùy theo những vaccin, hoặc một tỷ lệ vẫn còn cao). Một nghiên cứu của Sciensano, được công bố trong tạp chí quốc tế chuyên môn Vaccine, trên cơ sở những trắc nghiệm và những dữ liệu truy vết giữa tháng giêng và tháng sáu 2021, đã cho thấy một tiêm chủng hoàn toàn với một vaccin à ARN messager (Pfizer hay Moderna) làm giảm từ 74% xuống85% nguy cơ nhiễm, ít nhất bởi biến thể Alpha, vào thời kỳ thống trị. Còn về sự bảo vệ gây nên bởi các vaccin AstraZeneca và Janssen, vì lẽ chỉ một số giới hạn những người đã được tiêm chủng hoàn toàn vào cuối tháng sáu ở Bỉ, nên quá sớm để xác lập điều đó.

Vậy những người được tiêm chủng hoàn toàn là từ 3 đến 5 lần ít bị lây nhiễm hơn. Và dầu sao khi họ bị lây nhiễm, họ có 30 lần ít nguy cơ hơn bị nhập viện so với những người không tiêm chủng, theo những dữ liệu mới của CDC, Hoa Kỳ.

Đối với giáo sư miễn dịch học Michel Mountschen (Uliège), trưởng khoa các bệnh nhiem trùng ở CHU de Liège, “ không nên quá hướng về các con số, thay đổi từ nghiên cứu này đến nghiên cứu khác và bao gồm, đối với vài nghiên cứu, những nhiễm không triệu chứng, mà tốt hơn ghi nhớ một message : các vaccin hiệu quả chống lại những thể triệu chứng nặng và làm giảm một cách đáng kể sự truyền không triệu chứng. Một dữ liệu được thể hiện một cách cụ thể trong những báo cáo của Sciensano.

2. Bảo vệ kéo dài bao lâu ?

Một tháng sau khi đã nhận liều thứ hai, vaccin Pfizer cho phép 88% tránh bị Covid, nhưng sự bảo vệ này sụt xuống 74% sau 5 đến 6 tháng, theo một nghiên cứu Anh, được thực hiện từ những dữ liệu được thu thập ở khoảng 1 triệu người sử dụng application Zoe Covid và được phân tích bởi các nhà nghiên cứu của King’s College de Londres. Đối với vaccin AstraZeneca, tính hiệu quả chuyển từ 77% một tháng sau khi tiêm liều thứ hai xuống 67% sau 4 đến 5 tháng.

Lỗi tại biến thể Delta ? Tại chính các vaccin ? Khó nói, nhà miễn dịch học Sophie Lucas (UCLouvain) đã đánh giá như vậy, vì đó là một hiện tượng động : thời kỳ quan sát về tính hiệu quả của các vaccin càng kéo dài, biến thể Delta càng trở nên thống trị. “ Ta không thể xác định sự bảo vệ giảm bởi vì vaccin hơi ít hiệu quả chống biến thể delta hơn chống những biến thể gốc hay bởi vì có một sự giảm dần dần của bảo vệ ở những người được tiêm chủng cách nay đã lâu. Hay cả hai. Nhưng mặc dầu tỷ lệ bảo vệ chỉ còn 67%, điều đó vẫn là một score rất tốt, bà đă nhấn mạnh như vậy.

Vả lại, người đồng nhiệm của Uliège nhắc lại rằng mặc dầu tỷ lệ các kháng thể được gây nên bởi các vaccin giảm theo thời gian, tuy vậy điều đó không muốn nói rằng ta mất sự phòng vệ : “ Những cellules mémoires sản xuất rất nhanh những kháng thế mới, nhưng với một thời hạn nào đó, một hay hai ngày, điều này muốn nói rằng virus sẽ vẫn cứ lan tràn ở các niêm mạc. Nhưng tuyến phòng ngự thứ hai sẵn sàng. Chính điều này giải thích rằng sự bảo vệ chống những thể nặng vẫn tốt và rằng những nhiễm chủ yếu ít triệu chứng. Nếu hệ miễn dịch đi trước, tương quan lực lượng giữa nó và virus sẽ thuận lợi cho vật chủ.”

3. Nguy cơ truyền virus đối với những người được tiêm chủng ?

Mặc dầu những xác suất bị nhiễm là ít hơn khi ta hoàn toàn được tiêm chủng, nhưng nếu ta bị nhiễm, ta có thể truyền virus. Tuy nhiên, theo những dữ liệu của Sciensano : 90% nhiễm ít hơn trong số những contact giữa những người được chủng.

Vấn đề charge virale (lượng génome viral được phát hiện bởi một test PCR) của những người được tiêm chủng chưa hoàn toàn được giải quyết. “Những dữ liệu phát xuất từ Israel, trước khi biến thể Delta thống trị, đã cho thấy rằng những charge virale là yếu hơn ở những người được tiêm chủng, nhưng điều đó dường như không phải là như vậy với biến thể Delta, Michel Mountschen đã loan báo như vậy. Không đúng khi nói rằng những người được tiêm chủng truyền virus như những người không được tiêm chủng.”

“Dầu cho những charge virale là tương đương trong trường hợp nhiễm, vì có 5 lần ít hơn những người được tiêm chúng bị nhiễm, nên nguy cơ truyền toàn bộ trên thực tế cũng giảm”, Sophie Locas đã bổ sung như vậy. Ngoài ra nếu nhiễm vẫn ở đường hô hấp trên ở những người được chủng, ta ho ít hơn và ta khạc đờm ít hơn, vậyta phát tán ít hơn những hạt nhiễm trùng (particules infectieuses)

4. Ta có sẽ cần một liều thứ ba không ?

Những người suy giảm miễn dịch (khoảng 400.000 người ở Bỉ) sẽ cần một liều thứ ba để kích thích hệ miễn dịch suy yếu của mình, vả lại điều này được dự kiến. Đối với những người già nhất, mà ta biết rằng hệ miễn dịch là ít mạnh khoẻ hơn, điều đó cũng có thể được khuyến nghị. Còn về toàn dân, không phải là vấn đề hiện nay. “ Điều đó không nguy hiểm, nhưng là nặng nề và tốn kém, nhất là lợi ích không được xác lập bởi vì vaccin tiếp tục bảo vệ chống lại những thể nặng, Michel Moutschen đã quyết như vậy. “ Điều đó có lẽ sẽ không cần thiết, nhưng phải dự kiến khả năng này ngay từ bây giờ”, Sophie Lucas đã nói như vậy. Mặt khác bà nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo rằng phần lớn dân chúng trước hết đã nhận hai liều, ở đất nước chúng ta (Bỉ) cũng như ở nơi khác trên thế giới.

5. Những triễn vọng nào cho tương lai ?

Những dạng cho vaccin mới có thể ra đời, nhất là bằng đường mũi, điều này cho phép hạn chế tình trạng mang virus ở niêm mạc hầu. Những hãng sản xuất các vaccin à ARN messager đã loan báo rằng họ sẽ sẵn sàng một cách rất nhanh chóng thích ứng những vaccin của họ chống lại những biến thế mới có thể xuất hiện trong tương lai.

(LE SOIR 30/8/2021)

VI. SỰ TIÊM CHỦNG CỦA CÁC THIẾU NIÊN 12-15 TUỔI ĐƯỢC TỰ DO LỰA CHỌN

Conseil supérieur de la santé (CSS) vừa trao ý kiến của mình cho task force vaccination và cho các bộ trưởng có thẩm quyền. Hội đồng yêu cầu tiêm chủng những thiếu niên trẻ chỉ khi chúng dễ bị thương tổn hay những người chung quanh cũng dễ bị thương tổn ? Và nhấn mạnh lên sự tự do lựa chọn.

Trái với những nước khác như Pháp hay Israel (đã thay đổi quan điểm để đương đầu tốt hơn với một sự trổi dậy của những lây nhiễm với biến thể Delta), Bỉ sẽ không tiêm chủng một cách hệ thống tất cả những thiếu niên từ 12 đến 15 tuổi. Trong ý kiến được đệ trình cho giới hữu trách có thẩm quyền, Conseil supérieur de la santé (CSS) chủ trương sự lựa chọn tự do và cũng nhấn mạnh để sự lựa chọn này được soi sáng. Ngoài ra CSS nêu chi tiết những tình huống đặc biệt trong đó một sự tiêm chủng các thiếu niên có thể đuợc khuyến nghị, dầu đó là những trẻ em có những yếu tố bệnh nền (leucémie, các bệnh mãn tính của thận hay của gan, hội chứng Down…), hay khi những người thân cận dễ thương tổn hơn đứng trước nguy cơ phát triển một dạng nghiêm trọng của Covid. Sự bảo vệ gián tiếp những người thân yếu ớt hơn (ông bà, cha mẹ, anh chị em với những bệnh nền hay suy giảm miễn dịch) được CSS trình bày như là một lý lẽ ủng hộ cho việc tiêm chủng những trẻ trên 12 tuổi không có bệnh nền.

“ Sự lựa chọn tiêm chủng của những người trẻ nhất có tính chất cá nhân. Chính một quyết định cá nhân và được bàn tính mà các trẻ em và bố mẹ chúng phải thực hiện. Chúng phải được đả thông rõ ràng rằng những lợi ích cá nhân của vaccin là thấp đối với lứa tuổi này và rằng những nguy cơ bị những phản ứng phụ tuy rất hiếm nhưng có thể xảy ra”, Yves Van Laethem, phát ngôn viên interfédéral và chủ tịch của section vaccinale của CSS (conseil supérieur de la santé) đã nói như vậy. “ Chúng ta không muốn nài nỉ những thiếu niên trẻ này như những người khác trên 16 tuổi khi mời họ qua SMS mà chỉ đả thông chúng đủ để chúng có thể quyết định một cách tin chắc.”

ĐẢ THÔNG CÁC TRẺ VÀ CHA MẸ CỦA CHÚNG

Tại sao phải làm một khác nhau giữa những trẻ trên hay dưới 16 tuổi ? Có phải virus làm sự khác nhau này ? Không phải vậy vì lẽ nhìn toàn bộ nguy cơ tỷ lệ với tuổi (ngoài những bệnh nền). Theo chủ tịch của section vaccination của CSS, hai giải thích làm nền tặng cho sự phân biệt này : “ Những trẻ 16-17 tuổi đã là những người trưởng thành trẻ có năng lực đưa ra những quyết định liên quan đến chúng, trong khi đối với nhung trẻ 12-15 tuoi, bố mẹ vẫn còn là nhận tiền (partie prenante). Mặt khác, những nghiên cứu đã cho thấy rằng những trẻ trên 16 tuổi có nhiều tương tác xã hội hơn, trong khi những trẻ 12-15 tuổi vẫn tương tác giữa chúng với nhau hay với gia đình của chúng.

Luật 2002 về quyền của các bệnh nhân không đề cập một giới hạn tuổi nào : một trẻ vị thành niên có thể thực thi quyền bệnh nhân của mình một cách tự trị nếu nó được đánh giá bởi một thầy thuốc là có “năng lực đánh giá một cách hợp lý những lợi ích của mình”. Nhưng đối với những trẻ 12-15 tuổi, sự đồng ý được soi sáng (consentement éclairé) này là phức tạp hơn, báo cáo của CSS đã chị như vậy. Báo cáo này yêu cầu đả thông một cách rõ ràng các bố mẹ và/hoặc những người chịu trách nhiệm về mặt pháp luật về những lợi ich và những nguy cơ của sự tiêm chủng. Vả lại, CSS đặt vấn đề về sự lựa chọn này trên một quan điểm đạo đức, trong khi những bệnh nhân già và những bệnh nhân dễ bị thương tổn trên thế giới chưa được tiêm chủng.

MỘT BÁO CÁO ĐÃ KHÔNG NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG THUẬN

Những dữ liệu về độ an toàn và tính hiệu quả của vaccin Pfizer (vaccin duy nhất vào lúc này được cho phép đối với những trẻ vị thành niên, bởi vì cho đến nay nó là vaccin duy nhất đã là đối tượng của những thử nghiệm lâm sàng trên quần thể này) là khá làm yên tâm. Sau khi đã được xem xét kỹ càng ở những trẻ trên 16 tuổi, những tác dụng của vaccin này sau đó đã được khảo sát trên khoảng 2.200 thiếu niên tuổi từ 12 đến 15 tuổi ở Hoa Kỳ. Và điều này theo những quy tắc, bằng cách chia thành hai nhóm : một nhóm chứng đã nhận vaccin, so với một nhóm placebo khác. Nghiên cứu đã cho thấy rằng đáp ứng miễn dịch của những trẻ 12-15 là có thể tương tự và ngay cả hơi hơn đáp ứng của những trẻ 16-25 tuổi : tính hiệu quả của vaccin Pfizer đạt 100% ở những teenager không có một dấu hiệu nhiễm nào trước đây. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào đã được phát hiện, nhưng các tác giả đã ghi chú vài tác dụng phụ tạm thời kéo dài vài ngày từ nay được biết rõ : đau ở nơi chích (chủ yếu), mệt và đau đầu. Mặc dầu thế, kích thước của mẫu nghiệm rất nhỏ, những dữ liệu càng rõ dần khi ta tiêm chủng đại trà các thiếu niên, dầu đó là ở Hoa Kỳ, Canada hay Israel.

Cũng như mọi loại thuốc được cho phép thương mãi hóa, một sự theo dõi được (pharmacosurveillance) chặt chẽ là cần thiết “trong đời sống thật” để nhận diện mọi tác dụng phụ không được nhận thấy trong những thử nghiệm lâm sàng. Ở Hoa Kỳ, ở đây vaccin đã được tiêm từ một tháng nay cho các thiếu niên, vài trường hợp rất hiếm viêm cơ tim hay những thành của nó (viêm cơ tim hay viêm màng ngoài tim) đã được ghi nhân sau liều đầu tiên và thứ hai của vaccin, mặc dầu cho đến nay không có một liên hệ nhân quả nào được thiết lập. Cơ quan dược phẩm châu Âu cũng đánh giá những trường hợp rất hiếm hoi này, hy vọng có thể đưa ra những kết luận, nhưng đã cho biết rằng những viêm cơ tim hay viêm màng ngoài tim này dường như ở mức độ vừa phải trong phần lớn các trường hợp, có thể đảo ngược và có thể chữa lành trong ít thời gian.

Pierre Smeesters (Huderf), thầy thuốc nhi khoa của bệnh viện đại học nói như sau : “ tất cả điệu này vẫn rất là hiếm và, theo cá nhân tôi, tôi đánh giá rằng không có gì phải sợ đối với các trẻ em, đối với covid cũng như đối với sự tiêm chủng. Tuy nhiên ông kêu gọi đúng thời gian để cân nhắc kỹ các sự việc : “ Đó là một vấn đề phức tạp và quan trọng nhất là duy trì một đối thoại khoan dung, và chất lượng để tạo điều kiện cho bầu không khí tin cậy cần thiết để mọi người có thể lấy quyết định tốt nhất.”

MỘT LỢI ÍCH CÁ NHÂN THẤP

Lợi ích cá nhân của tiêm chủng các thiếu niên không bị bệnh nền là thấp, vì nguy cơ bị một thể nặng của bệnh gần như số không. Các thầy thuốc nhi khoa Bỉ đã tham gia vào báo cáo của CSS cũng đánh giá rằng tác dụng của tiêm chủng lên tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của hội chứng đa viêm (MIS-C : syndrome multi-inflammatoire) (có thể được phát khởi bởi covid ở trẻ em) chưa được rõ ràng. Vả lại tiên lượng của bệnh hiếm này, mà những triệu chứng nặng thường can nhập viện vào ICU nhi đồng là rất tốt, nhờ một arsenal thérapeutique từ nay được nắm vững, và tỷ lệ tử vong là rất thấp (khoảng 1-2%). Về nguy cơ covid long, các chuyên gia của các bệnh nhi đồng cũng có khuynh hướng tương đối hóa tầm quan trọng của nó bởi vì các dữ liệu về các triệu chứng kéo dài (symptomes de longue durée) ở trẻ em và thiếu niên ít được thu thập vào lúc này.

Vả lại, sự tiêm chủng các thiếu niên có thể góp phần tạo áp lực (nhẹ) lên sự lưu hành của virus trong dân chúng, những trẻ 12-15 tuổi và 16-17 tuổi lần lượt chiếm 4,5% và 2,16% dân số Bỉ. Nó có thể giúp một cách gián tiếp làm giảm những nhập viện và những tử vong của những người dễ bị thương tổn nhất. Nhưng CSS cho rằng khuyến khích sự tiêm chủng để bù một tỷ lệ tham gia tiêm chủng rất thấp của những người trưởng thành là một lý lẽ không thể chấp nhận được. Đó cũng là quan điểm của Pierre Smeesters : “Động lực của sự tiêm chủng các thiếu niên, đó là ảnh hưởng mà sự tiêm chủng này có thể có lên toàn dân. Thế mà điều đó đặt vấn đề, mặc dầu trong vài trường hợp, điều đó có thể được biện minh. Tôi không lo ngại về vaccin này. Nhưng chú ý đừng linstrumentaliser các thiếu niên”.

(LE SOIR 6/7/2021)

Đọc thêm :

TSYH số 578 : bài số 3 (vaccination des > 12 ans)
TSYH số 381 : bài số 4, 5

VII. TIÊM CHỦNG CÁC THIẾU NIÊN : MỘT CUỘC TRANH LUẬN ĐỐI VỚI CÁC THIẾU NIÊN, NHƯNG KHÔNG ĐỐI VỚI CÁC THẦY THUỐC NHI KHOA.

Tại sao phải tiêm chủng những thiếu niên trong khi đại đa số không phát triển những thể nặng của Covid ? Phải chăng ta có đủ thời gian nhìn lại về những hậu quả trong thời gian dài hạn của những vaccin à ARN mới này, hơn nữa ở những trẻ trong thời kỳ tăng trưởng ? Những câu hỏi này còn làm sỏi nổi nhiều bữa ăn gia đình.

Ở Pháp, sự tiêm chủng với Pfizer được mở cho những thiếu niên 12-17 tuổi từ 15/6/2021, và 52% trong số những trẻ này đã nhận liều đầu tiên. Khi chấp nhận vào cuối tháng bảy sự sử dụng vaccin Moderna (có thể tiếp cận ở các thầy thuốc đa khoa) đối với quần thể này, Haute Autorité de santé đã nhắc lại rằng sự ưu tiên là có được một tỷ lệ tiêm phủ cao trong toàn bộ các lứa tuổi để giới hạn những nguy cơ truyền của virus. Nhưng mục tiêu tập thể này là không đủ đối với vài phụ huynh.

Tuy nhiên, đối với các thầy thuốc nhi khoa không còn là lúc để do dự nữa. Trong một thông báo được công bố 22/7 vừa qua, Conseil national professionnel de pédiatrie nói tán đồng sự tiêm chủng các thiếu niên 12-17 tuổi, đánh giá cán cân lợi ích-nguy cơ là thuận lợi. Bởi vì, mặc dầu chúng ít phát triển những thể nặng của bệnh, nhưng các thiếu niên không hoàn toàn được tha miễn, bắt đầu bằng những trẻ có những bệnh nền : thật vậy khoảng 300 thiếu niên đã được đưa vào phòng hồi sức từ đầu đại dịch, 10 chết. Và mặc dầu không một nghiên cứu nào chứng minh rằng biến thể Delta là nguy hiểm hơn đối với những người trẻ, xét vì những lây nhiễm gia tăng và những nhập viện cũng vậy : ở Hoa kỳ, chúng được nhân lên 5 lần ở những trẻ vị thành niên từ đầu tháng bảy.

Ngoài ra, ngay tháng tư 2020, các thầy thuốc báo cáo một sự gia tăng những trường hợp syndrome inflammatoire multisystémique pédiatrique (Pims), một đáp ứng cham và không thích ứng của hệ viêm sau nhiễm, Christèle Gras-Le Guen, chủ tịch của Société franaise de pédiatrie đã giải thích như vậy. Bà định rõ rằng khoảng 500 trường hợp đã được liệt kê ở Pháp. Mặc dầu Pims là một nguy cơ thấp, nhưng nó hiện hữu

Nhưng đứng trước những nguy cơ liên kết với virus, câu hỏi về những hậu quả trong thời gian dài hạn của sự tiêm chủng kềm hãm nhiều phụ huynh. Ở Hoa Kỳ, ở đây từ tháng năm vừa qua, hơn 8 triệu thiếu niên đã nhận ít nhất một liều, một nguy cơ duy nhất liên kết với các vaccin à ARN messager (Pfizer và Moderna) đã được báo cáo bởi giới hữu trách y tế : nguy cơ viêm cơ tim (myocardite), đôi khi được kèm theo bởi viêm màng ngoài tim (péricardite). Ở những thiếu niên 12-17 tuổi, nguy cơ này, được biểu hiện nhất là bởi đau ngực hay hồi hộp, xảy ra ở một cháu trai trên 15.000 đến 20.000 và một cháu gái trên 100.000 đến 150.000, và nói chung xảy ra 2-4 ngày sau liều thứ hai, CDC đã chỉ như vậy. “Vì thận trọng, những thiếu niên Mỹ này đã được nhập viện, nhưng tiến triển là thuận lợi trong tất cả các trường hợp được công bố vào lúc này, Robert Cohen, chủ tịch của Conseil netional professionnel de pédiatrie, đã nói rõ như vậy. Phải ghi nhớ trong đầu nguy cơ này bởi vì đó không phải là một bệnh thường gặp. Nhưng kể từ lúc mà ta được cho biết, chẩn đoán có thể khá dễ dàng.” Cuối tháng bảy, ở Pháp chỉ một trường hợp viêm cơ tim được báo cáo bởi Cơ quan dược phẩm ở một vị thành niên

KHÔNG MỘT YẾU TỐ HỢP LÝ NÀO

Như Robert Cohen đã nhắc lại điều đó, “ trong lịch sử của vaccinologie, những tác dụng phụ luôn luôn đã xuất hiện trong tối đa ba tháng sau khi tiêm chủng. Những tác dụng này xuất hiện vào lúc mà đáp ứng miễn dịch là mạnh và có thể có một tác dụng có hại lên cơ thể. Thí dụ đó là trường hợp viêm cơ tim. Đó là liên kết, không phải là ma thuật, ông đã nói như vậy. “ Tiêm chủng các thiếu niên không phải là một điều mới, ta tiêm chủng chúng từ lâu chống bạch hầu, bại liệt, tétanosss. Tiêm chủng, tuổi thiếu niên, sự tăng trưởng, điều đó đã không bao giờ đặt vấn đề.”, Christèle Gras-Le Guen đã nói như vậy.

Cũng như vậy đối với những vaccin à ARN moi ? Đối với bà chủ tịch của Société française de pédiatrie, những mối lo sợ về những nguy cơ trong thời gian dài hạn không dựa trên “ một yếu tố hợp lý nào”. Trước hết bởi vì ARN là chỉ tồn tại ít thời gian trong cơ thể : những phân tử này rất dễ vỡ và nhanh chóng sẽ được loại bỏ khỏi cơ thể. Về phần mình Robert Cohen nhắc lại rằng khi anh bị nhiễm bởi một virus à ARN như Sars-CoV-2, ARN lạ đi vào trong những tế bào của anh. Đó là chuyện thường ngày của hệ miễn dịch của chúng ta. Inserm cũng giải thích rằng ARN được tiêm vào qua vaccin không có một nguy cơ nào biến đổi génome của chúng ta hay được truyền cho hậu duệ của chúng ta vì lẽ nó không đi vào trong nhân của tế bào

Sau cùng, đối với Christèle Gras-Le Gruen, tiêm chủng các thiếu niên trước hết phải cho phép chúng tìm lại một cuộc sống “bình thường” : chơi thể thao, thăm bạn bè, sống một buổi tựu trường ít gây lo âu hơn buổi tựu trường trước…Và tất cả điều đó nhờ tiêm chủng. “Tuyệt đối phải bảo vệ chúng khỏi những hậu quả gián tiếp của cuộc khủng hoảng đã làm bảo hòa các bệnh viện của chúng ta từ 2020, đó là những hậu quả lên sức khỏe tâm thần, bà đã xác nhận như vậy. Ở CHU de Nantes, người ta đã phải mở một khoa bổ sung và một permanence de soins để điều trị bệnh tâm thần. Hai đứa trẻ đã tự tử trong khi chúng nằm trong các khoa của chúng tôi. Nguy hiểm của Covid đối với các trẻ là ở đó”.

(LE FIGARO 18/8/2021)so

VIII. BIẾN THỂ C.1.2. KHÔNG THẬT SỰ LÀM LO NGẠI CÁC NHÀ KHOA HỌC

Các nhà khoa học Nam Phi đã nhận diện một biến thế mới của coronavirus có một số các biến dị gây quan ngại. Được phát hiện lần đầu tiên vào tháng năm 2021, biến thể này được mệnh danh là C.1.2. đã ảnh hưởng 9 tỉnh của Nam Phi, ngoài Cộng hòa dân chủ Congo, đảo Maurice, Portugal, Tân Tây Lan và Thụy Sĩ. Với khoảng 50 biến dị của nó, vào lúc này, nó là biến thể xa chủng gốc xuất hiện ở Vũ Hán nhất, điều này có thể ảnh hưởng năng lực của các kháng thể trung hòa nó. Nhà thống kê sinh học của Flandre Tom Wenseleers (KU Leuven) trước hết muốn làm an lòng : trước hết, những dữ liệu còn thiếu để xác lập điều đó một cách chính thức. Nhưng nhất là, để một biến thể có thể chiếm ưu thế trên thế giới như biến thể delta (hay alpha trước nó), nó phải có một ưu thế tiến triển. Nếu nó có ưu thế này, C.1.2. sẽ hiện diện nhiều hơn. Thế mà, hiện nay, biến thể delta vẫn thống trị phần lớn trên thế giới và ở Bỉ, ở đây nó chiếm gần 100% những trường hợp.

(LE SOIR 31/8/2021)

IX. VIH (VIRUS DE L’IMMUNODÉFICIENCE HUMAINE) : NHỮNG TIẾN BỘ ĐIỀU TRỊ

Điều trịnhữngngười dương tính và phòng ngừa những nhiễm mới tiến triển. Những giải thích bởi BS Pierre Truchis, thầy thuốc chuyên khoa bệnh nhiễm trùng của khoa các bệnh nhiễm trùng, AP-HP, hopital Raymond-Poincaré, Garches

Hỏi : Ảnh hưởng dịch tễ học của VIH hiện nay là gì ?

BS Pierre de Truchis : Từ năm 1981, VIH (virus de l’immunodéficience humaine) đã giết chết 35 triệu người. Hiện nay 38 triệu người huyết thanh dương tính trên thế giới : 2/3 trong số họ sống ở Afrique subsaharienne. Pháp thống kê 6000 trường hợp mới mỗi năm và có khoảng 150.000 huyết thanh dương tính với 60% khác giới (hétérosexuel). Ở Pháp, ngược với châu Phi, sự lây nhiễm nam giới nổi trội (60% của toàn thể). Những người có nguy cơ nhất vẫn là những người đàn ô ng có những quan hệ tình dục với những người đàn ông khác và, ít hơn trước nhiều, những người nghiện ma túy.

Hỏi : Điều trị chuẩn là gì ?ss

BS Pierre de Truchis : Traitement de référence của các huyết thanh dương tính là trithérapie. Hôm nay điều trị được đơn giản hóa, thu giảm còn một hay hai viên mỗi ngày và được cá thể hóa, bởi vì chúng ta có khoảng 20 loại thuốc chống virus, cho phép những phối hợp thích ứng với mỗi bệnh nhân. Mục tiêu là làm cho virus trong vài tháng không thể phát hiện được và phục hồi một tính miễn dịch tốt (được đo bằng số các tế bào lympho CD4, lý tưởng trên 500/mm2). Lợi ích kép : bệnh nhân không còn bị bệnh nữa và không truyền virus nữa. Mặc dầu độ dung nạp với điều trị được cải thiện, những tác dụng phụ khác nhau thường gặp trong thời gian ngắn hạn (những rối loạn tiêu hóa, giấc ngủ, mệt, đau cơ-khớp). Trong thời gian dài hạn, vài sản phẩm có thể làm dễ sự lên cân hay những rối loạn của chuyển hóa tế bào. Những người bị nhiễm cũng yếu ớt hơn và thường mang những bệnh nền (cao huyết áp, bệnh đái đường…). Tuy vậy, hy vọng sống của họ với trithérapie hiệu quả đã hầu như đuổi kịp hy vọng sống của population générale. Những phương tiện phòng ngừa cũng đã đa dạng hóa : ngoài préservatif, sự điều tra phát hiện và điều trị các bệnh nhân đã làm giảm nguy cơ truyền bệnh (như nguy cơ truyền bệnh từ mẹ đến con) ; sự sử dụng đồ dùng vô trùng đã làm giảm sự lây nhiễm ở những người nghiện ma túy ; sau cùng, đối với những người huyết thanh âm tính không muốn hay không thể sử dụng préservatif và có những hành vi nguy cơ (conduite à risque), ta có prévention pré-exposition (PrEP), sự sử dụng mỗi ngày hai thuốc chống virus trong một viên thuốc duy nhất, bảo vệ họ 90%. Một nghiên cứu mới đây của Pháp (Ipergay) đã cho thấy rằng sử dụng thuốc này «theo yêu cầu » (hai giờ trước khi giao hợp rồi trong 48 giờ) cũng hiệu quả như PrEP liên tục. Từ tháng năm, PrEP có thể được kê đơn bởi tất cả các thầy thuốc, chứ không còn chỉ bởi các thầy thuốc bệnh viện nữa.

Hỏi : Những phương pháp điều trị mới là gì ?

BS Pierre de Truchis : Trithérapie dùng mỗi ngày và liên tục không chữa khỏi căn bệnh nhưng ngăn cản sự tăng sinh của VIH. Để cố làm nhẹ bớt sự gò bó này, ở Garches, chúng tôi đă là những người đầu tiên trắc nghiệm thành công sự dùng đoạn hồi 4 ngày trên 7 (từ thứ hai đến thứ năm), trong một nghiên cứu randomisé được gọi là Quatuor, đưa vào 640 bệnh nhân : chất lượng sống và ressenti rất được cải thiện, nhưng không mất một hiệu quả điều trị nào. Trong một mục đích tương tự, những essai d’allégement trong bithérapie đã được phát triển : chúng cũng tỏ ra hiệu quả như trithérapie. Trong thời gian sắp đến chúng tôi sẽ đánh giá khả năng sử dụng bithérapie intermittente 4 ngày trên 7 trong một thử nghiệm mới.

Hỏi : Những thuốc chống virus mới được dự kiến ?

BS Pierre de Truchis : Vâng ! Nhiều thuốc có thời gian tác dụng kéo dài đang được phát triển. Cuối năm 2021, chúng tôi có một phối hợp những thuốc chống virus, có thể tiêm mông mỗi hai tháng và điều này sẽ đủ. Những thuốc khác có thể dùng bằng đường miệng, một lần mỗi tuần hay mỗi tháng, đang được nghiên cứu.

(PARIS MATCH 1-7/7/2021)

Đọc thêm :

– TSYH số 497 : bài số 9
– TSYH số 366 : chuyên đề về Sida

X. STIMULATION CÉRÉBRALE PROFONDE HF : APPLICATIONS THÉRAPEUTIQUES

Hỏi : SCP (Stimulation cérébrale profonde) là gì ?

GS Alim Louis Benabid. Được sử dụng từ những năm 1950, nó cho phép định vị trong não những trung tâm chủ chốt bằng kích thích điện có tần số thấp (50 herz). Ta đạt được điều đó nhờ stéréotaxie. Kỹ thuật này nhằm, dưới sự hướng dẫn của X quang, và xuyên qua các lỗ millimétrique được chọc thủng trong sọ, đưa vào trọng đại não một cách chính xác và vô hại những dụng cụ cỡ nhỏ (kim, điện cực) đến tận đích. Sau đó ta có thể, nếu nó loạn năng, tiêu hủy nó bằng électrocoagulation fine mà không làm thương tổn não lành mạnh. Thí dụ, sự phá hủy của một trung tâm não được gọi là đồi thị (thalamus) (thalamotomie) hủy bỏ bệnh run Parkinson.

Hỏi : Ông đã khám phá gì ngày 7/7/1987 ?

GS Alim Louis Benabid. Là thầy thuốc chuyên khoa ngoại thần kinh ở CHU de Grenoble, tôi đã thực hiện một thalamotomie trên một bệnh nhân bị bệnh Parkinson. Sự tò mò khoa học trước hết đã thúc đẩy tôi quan sát hiệu quả lên đồi thị (thalamus) của một dòng điện tần số cao (HF), từ 80 đến 100 hertz, và, ngạc nhiên biết bao, nó đã làm biến mất triệu chứng ! Điều đó cho thấy rằng ta có thể điều trị một loạn năng não mà không cần phải phá hủy một vùng não bị rối loạn (ở đây bởi một sự thiếu hụt dopamine). Những ưu điểm là rõ ràng : phương pháp có thể đảo ngược được, có thể điều biến (modulable) và, technologie des stimulations vì đã hiện hữu, nên điều đó khiến hy vọng một sự thương mãi hóa nhanh chóng. Tuy nhiên phải nhiều năm hoàn thiện để có được những stimulateur implantable thích ứng.

Hỏi : Một stimulateur được đặt như thế nào ?

GS Alim Louis Benabid. Chỉ định thứ nhất là dyskinésie (những cử động bất thường) của những bệnh nhân Parkinson. SCP-HF có thể được chỉ định vào giai đoạn đầu của căn bệnh thay cho điều trị nội khoa (L-Dopa) hay về sau, sau nhiều tháng hay năm, khi chính các thuốc gây dyskinésie. Cũng phải rằng đó là một Parkinson thuần túy và không phải là một hội chứng Parkinson, gồm nhiều bệnh khác nhau. Sự cắm (implantation) (hai đến bốn giờ) của điện cực kích thích được thực hiện bằng stéréotaxie dưới gây tê tại chỗ hay gây mê tổng quát. Dây cáp (thiết diện 3mm) đi ra khỏi sọ trên đỉnh trán trong các sợi tóc, cách đường chính diện khoảng 3 cm. Nó được đào hầm dưới da về phia bên, đi qua sau tai, rồi vào trong cơ và đến gặp dưới da boitier du stimulateur mà ta đặt dưới xương đòn trước các cơ ngực, đôi khi dưới một vú ở các phụ nữ. Bệnh nhân được nhập viện trong 48 giờ để điều chỉnh. Nguy cơ mổ, nhất là nhiễm trùng, là rất thấp (dưới 1%). Hai hay ba visite mỗi năm đảm bảo sự theo dõi. Batterie của stimulateur được thay trung bình mỗi ba năm. Cũng hiện hữu một batterie rechargeable ở nhà mỗi hai hay ba tuần. SCP-HF cho phép lấy lại một cuộc sống vận động bình thường, gồm cả thể thao, trong nhiều năm (5 đến 10 năm, thậm chí hơn). Nó không làm ngừng sự thoái hóa thần kinh vậy không thay đổi tiên lượng của bệnh.

Hỏi : Những áp dụng mới đã xuất hiện ?

GS Alim Louis Benabid. Vâng. Chúng cũng nhằm ức chế sự vận hành chức năng bất thường của vài trung tâm não mà không phá hủy chúng. Chúng có thể được sử dụng để điều trị động kinh, những trouble obsessionnel compulsif hay những rối loạn của hành vi ăn uống, bệnh trầm cảm, vài chứng nghiện, những algie faciale. Hiệu quả của SCP HF lên bệnh Alzheimer đang được nghiên cứu.

Hỏi : Những công trình của ông có được công nhận không?

GS Alim Louis Benabid. Vâng. Tôi đã nhận năm 2014 giải Lasker, giải uy tín nhất trong y học sau giải Nobel, và vài giải khác. Điều đó đã giúp tôi phổ biến trên thế giới kỹ thuật này. Một cuốn sách mới đây, « Le hasard et le possible » kể lại lịch sử của khám phá này.

(PARIS MATCH 8-14/7/2021)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(10/9/2021)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s