1/ PHỤ NỮ ĐƯỢC SĂN SÓC ÍT TỐT HƠN ĐÀN ÔNG ?
1054 gynécologue médical cho hơn 27 triệu phụ nữ Pháp trên 15 tuổi
Trong y khoa cũng như trong những nghành khác, phụ nữ không phải là đàn ông. Nhưng quá nhiều chính sách và những người điều trị đã không xét đến sự thật khoa học này.
GENRE. ” Tôi thấy đến phòng mạch của tôi ngày càng nhiều, và đó là một điều chứng thực chung trong số những thầy thuốc phụ khoa, những phụ nữ với những vấn đề lớn : thiếu máu, u xơ, sa sinh dục (prolapsus), són tiểu (incontinences urinaires) và, điều gây quản ngại hơn, với những ung thư buồng trứng ở một giai đoạn tiến triển, vì không được theo dõi phụ khoa từ nhiều năm “, BS Joelle Bensimhon, thầy thuốc phụ khoa ở bệnh viện Port-Royal (Paris) và đồng tác giả của La Grossesse pour les nuls, đã lấy làm lo sợ như vậy.Một sự thoái lùi thật sự, không phải là kết quả của sự tình cờ : đất nước của chúng ta chỉ còn có 1054 gynécologue médical cho hơn 27 triệu người Pháp trên 15 tuổi. Thế mà điều đó sẽ không ổn thỏa : một nửa trong số họ trên 60 tuổi, thế mà sự đào tạo quá ít để lấp những chỗ trống của những người về hưu. Để so sánh, 1311 thầy thuốc niệu khoa (urologue) (chuyên khoa về bộ máy sinh dục nam và bộ máy tiết niệu) hành nghề ở Pháp, trong khi những người đàn ông không phải khám những thầy thuốc chuyên khoa trong suốt cuộc đời của họ vì một sự ngừa thai, những vấn đề chu kỳ kinh nguyệt hay những rối loạn do mãn kinh !
” Gynécologie médicale (nội phụ khoa) đã không còn đào tạo một nội trú (interne) nào nữa giữa 1987 và 2003. Rồi thì khoảng 20 được đào tạo mỗi năm (82 và năm 2018), nhưng con số vẫn không đủ bởi vì thầy thuốc nội phụ khoa (gynécologue médical) là thầy thuốc chuyên khoa duy nhất theo kèm người phụ nữ trong suốt cuộc đời của họ, BS Bensimhon đã nhắc lại như vậy. Mặc dầu các nữ hộ sinh có thể thực hiện những frottis và kê đơn một biện pháp ngừa thai, nhưng không quản lý những vấn đề về khả năng sinh sản (fertilité), những ung thư sinh dục hay một mãn kinh có vấn đề. Những thầy thuốc sản khoa đã có khá nhiều điều để làm với những phụ nữ có thai ; về các thầy thuốc đa khoa, không phải tất cả đều quan tâm và được đào tao phụ khoa, và họ cũng không có thời gian (consultations cần nhiều thời gian hơn). Thế mà các phụ nữ không luôn luôn muốn tâm sự những vấn đề thầm kín của mình cho thầy thuốc gia đình.”
Có nhiều lãnh vực khác của sức khỏe trong đó các phụ nữ vẫn còn là những người thua cuộc. Thí dụ như lãnh vực hoạt động vật lý : đó là một chứng cớ của sức khoẻ tốt, ” nhưng có một décrochage sportif thật sự của những thiếu nữ, ngay 8-10 tuổi, thế mà vốn xương (capital osseux) phụ thuộc hoạt động giữa 12 và 20 tuổi, điều này không ngừng gia tăng sau đó “, GS François Carré, cardiologue và médecin du sport (CHU Rennes), tác giả của Danger sédentarité đã ghi chú như vậy. Tại sao một décrochage như vậy ? ” Biện pháp cổ vũ những mannequin quá gầy hơn là những vận động viên phát triển cơ không giúp các thiếu nữ định hướng. Giới thể thao thường so sánh những năng lực vật lý của các cô gái với năng lực của các cậu con trai, điều này không có một ý nghĩa nào. Sau cùng, các phụ nữ dùng thời gian để chăm lo gia đình, nhưng không đủ thời gian cho họ.”
Một cách nghịch lý, những thành công tốt nhất để làm lay động các phụ nữ liên quan đến những người bị một bệnh ung thư. ” Đó đúng là bằng cớ rằng họ tự nguyện, GS Carré đã nhấn mạnh như vậy. Để họ là như vậy suốt cuộc đời, cần có một nhận thức tập thể.” Có sự khẩn cấp bởi vì tình trạng nhàn rổi không hoạt động làm nguy hại sức khỏe tim mạch và khả năng độc lập (autonomie) về sau của họ. Trong trường hợp tai biến mạch máu não, nguyên nhân đầu gây tử vong ở phụ nữ, họ chịu nhiều di chứng hơn đàn ông vì lẽ chẩn đoán chậm và bởi vì họ có sức khỏe ít tốt hơn vào lúc tai biến. Tình trạng nhàn rổi không hoạt động chịu trách nhiệm một phần.
Cái nhìn của xã hội cũng phải thay đổi về mặt sức khỏe sinh dục (santé sexuelle) của các phụ nữ. Vào năm 2018, The British Medical Journal, tạp chí y học tham chiếu, đã phải đưa ra một tài liệu về sự xử trí những đau đớn mà các phụ nữ cảm nhận lúc giao hợp (dyspareunie), được trình bày như là một “vấn đề thường gặp, thường không được chú ý đến và không được hiểu rõ “. Những khuyến nghị của Bộ y tế về endométriose (gây đau lúc giao hợp) chỉ có từ năm 2018.
” Sau cùng vào năm 2019, có cái để mà tự hỏi về sự đảm nhận đối với những phụ nữ phần lớn chịu sự ngừa thai, BS Bensimhon đã nhận xét như vậy. Giúp cho sự ham muốn phụ nữ, préservatif phụ nữ và vài loại thuốc ngừa thai không được bồi hoàn. ” Ngay cả khi một giải pháp triệt căn được lựa chọn, chính lại các phụ nữ vẫn hết lòng : 0,8% những người đàn nông được thắt ống dẫn tinh ở Pháp. Những phụ nữ 5 lần nhiều hơn chịu thắt vòi trứng.
Sự không xét đến tính dục (sexualité) của các phụ nữ còn rõ rệt hơn. Cho đến 40% những phụ nữ trên 40 tuổi bi khô và teo âm đạo với rát và đau khi giao hợp, hoặc do mãn kinh, hoặc vì những điều trị được cho khi bị một ung thư phụ nữ. Trong trường hợp sau này, điều trị kích thích tố của mãn kinh không được cho phép. ” Những giải pháp thay thế hiệu quả là laser để tạo những micro-impact ở niêm mạc âm đạo để làm cho nó tonique hơn và thấm nước hơn hay radiofréquence, nhưng phí tổn của chúng (nhiều trăm euro) không được đảm nhận. Để so sánh, một người đàn ông được mổ vì một ung thư tiền liệt tuyến và không còn có thể có những giao hợp, có quyền nhận những injections intracaverneuses hay một crème dùng cho sự cương cứng, một phần được bồi hoan bởi bảo hiểm xã hội “, BS Catherine Solano, sexologue ở bệnh viện Cochin (Paris) đã chỉ rõ như vậy.
(LE FIGARO 30/9/2019)
2/ Ở PHỤ NỮ KHÔNG CÓ CARDIOLOGIE NÀO MÀ KHÔNG CÓ GYNECOLOGIE !
Nếu những phụ nữ của Hauts-de-France có một “atout coeur” mà những phụ nữ khác thèm muốn, đó là vì một thiên hướng đối lập : thiên hướng của GS Claire Mounier-Véhier, vốn muốn là một thầy thuốc sản phụ khoa. ” Điều đó đã không có thể vì lý do y khoa, nhưng bởi vì cardiologie là lựa chọn thứ hai của tôi, nên tôi đã quan tâm đến những phụ nữ cao huyết áp trong thời kỳ thai nghén của họ. Một khi trở thành cardiologue, vì chứng thực những chậm trễ trong xử trí những phụ nữ nạn nhân của nhồi máu cơ tim và sự tiếp cận ít hơn của họ với những chương trình réadaptation cardiaque, chỉ một phụ nữ trên năm được cho phép, nên vào năm 2011 tôi đã quyết định phát động Parcours Santé Coeur-Artères-Femmes ở CHU de Lille.”
Mục tiêu : phát hiện tốt hơn những yếu tố nguy cơ đặc thù cho các phụ nữ và đoạn tuyệt với ý tưởng cho rằng tim của họ được yên ổn nhờ các kích thích tố. ” Thực tế, đó là một phụ nữ trên ba chết vì bệnh tim mạch “, thầy thuốc chuyen khoa tim của service de médecine vasculaire et HTA ở CHU de Lille, chủ tịch danh dự của Liên đoàn tim học Pháp và tác giả của Mon combat pour le coeur des femmes, đã nói như vậy. ” Những nhồi máu đã tiến triển ở những phụ nữ 45-54 tuổi và tiên lượng của các phụ nữ trong trường hợp nhồi máu ít tốt hơn tiên lượng của những người đàn ông.”
Tổ chức y tế thế giới đã báo động về ” dịch ” bệnh tim mạch được loan báo cho 20 năm đến, nhất là ở các phụ nữ : ” Một cấp cứu xã hội, chủ yếu do sự tiến triển của các lối sống. Chúng ta phải hành động và không còn phải chịu đựng nữa “, thầy thuốc đánh giá như vậy.
8 năm sau khi thiết đặt Parcours Santé Coeur Artères-Femmes, 1700 bệnh nhân đă hưởng được điều đó và một bệnh xơ vữa động mạch được tìm thấy ở 1/3 trong số họ, bằng cớ cho thấy rằng điều đó là hữu ích. ” Một dự án mở rộng đến 5 trung tâm khác của Hauts-de-France đang được tiến hành, với hy vọng rằng Parcours này được tiếp tục trên toàn bộ lănh thổ “, GS Mounier-Véhier đã biện hộ như vậy như vậy.
BS Sabrina Cecchin, généraliste ở Hauts-de-France, nguoi đã từng tiếp cận chương trình, chứng tỏ tính đặc biệt của nó : ” Vấn chẩn nói về sự ngừa thai, thai nghén của tôi, trọng lượng lúc sinh của các con tôi và trọng lượng của các năm.” Ngoài một bilan tim và huyết quản, liên kết vào đó một bilan phụ khoa rất hoàn chỉnh. ” Sau cùng người ta đặt cho tôi những câu hỏi về giấc ngủ (ngừng thở ngắn lúc ngủ làm trầm trọng cao huyết áp), về đau dạ dày, đau khớp, đau vùng thắt lưng…”Thật vậy, ở phụ nữ, nhồi máu cơ tim có thể có một dạng vẻ đánh lừa : đau mơ hồ trong ngực hay trong vai, hồi hộp lúc gắng sức, mệt dai dẳng và khó thở, những rối loạn tiêu hóa được kèm theo bởi vã mồ hôi…Với kinh nghiệm của mình, BS Cecchin từ nay đầu tư vào những phụ nữ của khu vực mình để cho biết lộ trình (parcours) có một không hai này ở Pháp. Bà cũng khuyến khích họ đóng vai trò messager : ” Tôi tin chắc rằng chính qua những phụ nữ này mà những thành kiến cuối cùng về sức khỏe tim mạch của họ sẽ biến mất.
Trong buổi đầu của năm 2010, ta còn chờ đợi gì nữa mới liên kết cardiologie và gynécologie khắp nơi ở Pháp ? Có sự khẩn trương, ” bởi vì mặc dầu những phụ nữ chia sẻ vài yếu tố nguy cơ với những người đàn ông (thuốc lá, rượu, stress, tăng thể trọng, tình trạng nhàn rổi không hoạt động), nhưng họ cũng có một đời sống hormone làm thay đổi tất cả, GS Mounier-Véhier đã nhấn mạnh như vậy. Lúc 30 tuổi, cocktail thuốc lá-thuốc ngừa thai phối hợp nhân gấp năm nguy cơ nhồi máu. Ở tuổi 40, nguy cơ được nhân lên 8, trong khi một contraception microprogestative pure không đặt vấn đề.”
Thai nghén cũng tương đương với một stress tim rất lớn. ” Làn sóng hormone được đổ vào trong cơ thể khiến tim và các huyết quản giãn ra để bơm 10-12 lít máu mỗi phút thay vì 5 như thường lệ. Vào tam cá nguyệt thứ hai, được chế tạo những chất làm đông máu và tránh xuất huyết khi sinh, với hệ luận, một nguy cơ gia tăng tạo những cục máu đông. Không một người đàn ông nào bị điều đó ! Thế mà, cho đến nay, một phụ nữ có một biến chứng tim mạch trong thời kỳ thai nghén ngay cả không được theo dõi tim sau khi sinh “, BS Mounier-Vehier đã phàn nàn như vậy. Sau cùng, những những đảo lộn kích thích tố của thời kỳ chu mãn kinh gia tăng nguy cơ. Nhưng rất ít phụ nữ được theo dõi, luôn luôn vì thiếu thầy thuốc phụ khoa.
(LE FIGARO 30/9/2019)
3/ CÁC PHỤ NỮ CHỊU NHỮNG BẤT LỢI TRONG NHỒI MÁU CƠ TIM.
Dr Michèle Langendries
CARDIOLOGIE. Hiện nay chúng ta thiếu những chỉ thị về những điều trị đặc thù cho phụ nữ, và điều này ngay cả trên lãnh vực quen thuộc của cardiologie. Tuy nhiên, hôm nay,những công trình nghiên cứu mô tả càng ngày càng chính xác sự phát triển đặc biệt của vài hội chứng ở các phụ nữ. Đó là trường hợp của những công trình nghiên cứu mới đây về nhồi máu cơ tim.Vào ngày hôm sau của một nhồi máu cơ tim, tỷ lệ tử vong ở phụ nữ quan trọng hơn ở đàn ông, trong thời gian ngắn hạn cũng như dài hạn. Những lời giải thích khác nhau đã đều đặn được đưa ra. Thí dụ, những phụ nữ thường già hơn đàn ông vào lúc nhồi máu, bởi vì khi còn trẻ hơn, họ đã phát triển một sự bảo vệ nhờ oestrogène. Ngoài ra, vào lúc các triệu chứng xuất hiện, họ đến bệnh viện ít nhanh hơn, một phần bởi vì vào một tuổi đã cao, họ thường sống cô độc hơn đàn ông. Yếu tố quan trọng khác : những triệu chứng không điển hình của những hội chứng động mạch vành ở các phụ nữ. Hôm nay một công trình nghiên cứu của Hoa Kỳ mở rộng danh sách của các chứng cớ, bằng cách căn cứ trên một registre của khoảng 2500 bệnh nhân đã từng chịu một can thiệp động mạch vành qua da (ICP : intervention coronarienne percutanée) sau một nhồi máu cơ tim với đoạn ST chênh lên (STEMI).
Trong công trình nghiên cứu này, những bệnh nhân lớn tuổi hơn những đàn ông và có nhiều comorbidités hơn. Thời gian giữa lúc xuất hiện những triệu chứng và lúc nhập viên ở phụ nữ là 40 phút lâu hơn ở đàn ông (280 so với 240 phút)
TÁI TƯỚI MÁU (REPERFUSION)
Ngoài ra, những con số đã cho thấy rằng tỷ lệ tử vong lúc 30 ngày ở phụ nữ quan trọng hơn ở đàn ông, và điều này ngay cả sau khi điều chỉnh đối với những yếu tố không thuận lợi như tuổi tác và comorbidité. Ở đây vai trò của những yếu tố sinh học bị cáo buộc. Sự khác nhau giữa tỷ lệ tử vong nam và nữ chủ yếu được nhận xét trong nhóm bệnh nhân đến bệnh viện muộn (trên 120 phút sau khi xuất hiện những triệu chứng). Nhưng cũng có một sự chênh lệch về tỷ lệ tử vong bất lợi cho các phụ nữ ở những bệnh nhân được nhập viện sớm. Sự tưới máu của cơ tim sau can thiệp động mạch vành qua da (ICP) (được định lượng bởi score TIMI) ít tốt hơn ở các phụ nữ. Registe không đưa ra một giải thích nào cho hiện tượng này, nhưng sự tổn hại vi huyết quản mà những phụ nữ đặc biệt phải chịu, có thể đúng là nguyên nhân. Trong một trường hợp như thế, nội mạc sưng lên trong những nhánh động mạch nhỏ nhất, điều này làm chậm lại tuần hoàn máu. Những yếu tố khác chắc chắn đóng một vai trò, như đường kính động mạch, về cơ thể học nhỏ hơn, một đáp ứng viêm mạnh mẽ hơn và sự xuất hiện của những co thắt động mạch vành trong những ngày sau ICP.
Trong công trình nghiên cứu này, tỷ lệ tử vong tăng lên đến 4,8% ở các phụ nữ so với 2,5% ở đàn ông. Chưa có giải pháp để chống lại hai bất lợi : nhập viện muộn và những kết quả tái tưới máu ít tốt hơn ở các phụ nữ. Chắc chắn sẽ cần phải một thái độ đặc thù phụ nữ của sử dụng thuốc cũng như thủ thuật. Bây giờ, buộc phải thực hiện một sự thu thập cật lực những dữ kiện về phụ nữ trong tư liệu.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 15/3/2019)
4/ Y KHOA THÍCH ỨNG VỚI NÃO BỘ CỦA PHỤ NỮ.
8 và 9 tháng sáu ở đại học Zurich (Thụy Sĩ) diễn ra Forum ” Women’s Brain Project (Projet pour le cerveau des femmes), một tổ chức khoa học non trẻ với mục đích không vụ lợi, nhằm nghiên cứu những đặc thù của não của các phụ nữ trong sức khỏe tâm thần và não bộ.
Những khác nhau giữa hai giới tính hiện hữu trong những triệu chứng, sự tiến triển và sự phản ứng với những điều trị của các bệnh não và những rối loạn tâm thần. Một tổ chức khoa học lên tiếng báo động và đề nghị phát triển những điều trị đặc hiệu.Vài con số tự chúng nói lên điều đó. Hơn 70% những người bị migraine là những phụ nữ, cũng như 65% những bệnh nhân Alzheimer và 75% những người bị bệnh xơ cứng rải rác. Trầm cảm, tai biến mạch máu não hay méningiome (u màng não) cũng thường gặp hơn trong population féminine. Ở phụ nữ những chấn động não cũng thường nặng hơn. ” Đó như thể chúng ta khám phá trong gian phòng một con voi mà chẳng ai thấy cho đến lúc đó ! “, Antonella Santuccione Chadha, thầy thuốc chuyên khoa bệnh Alzheimer và các rối loạn tâm thần, đã đảm bảo như vậy. Một sự kiện quan trọng, và tuy vậy không được y khoa biết đến, đến độ cách nay 2 năm, nhà nghiên cứu Thụy Sĩ đã cộng tác với hai trong số những đồng nghiệp, Maria Teresa Ferretti, neuro-immunologiste ở Viện y khoa phục hồi của đại học Zurich, và Annemarie Schumacher Dimech, phụ trách một chương trình soins palliatifs ở đại học Lucerne. Tất cả ba đã thành lập một tổ chức mục đích không lợi nhuận để báo động và thu thập những dữ kiện về những vấn đề đặt ra này : Women’s Brain Project (WBP : Projet pour le cerveau des femmes). “WBP đánh giá rằng chìa khóa của vài cơ chế bệnh lý não, và do đó những khả năng điều trị, có thể nằm trong những khác nhau được quan sát giữa các giới tính “, Antonella Santuccione Chadha, đã giải thích như vậy. Sứ mạng của bà : ” Nhận diện những nhu cầu đặc hiệu của não của các phụ nữ, biện hộ cho sự thay đổi và sử dụng những kết luận có lợi cho xã hội.”
MỘT HƯỚNG NGHIÊN CỨU CẢI TIẾN : VAI TRÒ CỦA GIỐNG.
Những nhà khoa học, những người quyết định, những nhà phát triển thuốc, những cơ quan tài trợ, những nhân viên y tế và các bệnh nhân trên toàn thế giới đã ủng hộ mạng này. Vào tháng sáu năm 2019, 400 trong số họ được chờ đợi ở đại học Zurich cho diễn đàn quốc tế lần thứ hai của WBP. Những khác nhau não bộ đàn ông/đàn bà không rõ ràng. ” Không một nhà cơ thể học thần kinh nào có khả năng phân biệt não của một người đàn ông với não của một người đàn bà, ngay cả khi nhờ đến những kính hiển vi mạnh nhất ! Antonella Santuccione Chadha, đã đảm bảo như vậy. Mặc dầu não của đàn ông trung bình lớn hơn 10%, nhưng đó chỉ là tỷ lệ với kích thước “. Phải chăng sự khác nhau đúng hơn là sinh học ? Một trong những luận cứ gây ấn tượng nhất tán trợ hướng nghiên cứu này đã được mang lại bởi équipe của Jeffrey Mogil, chuyên gia về đau ở đại học McGill của Montréal (Canada).Theo công trình nghiên cứu được công bố vào năm 2015 trong tạp chí Nature Neuroscience, những circuit de la douleur trong năo khác nhau giữa chuột đực và cái. Những công trình sơ bộ cũng có khuynh hướng cho thấy điều đó ở người (Baylor College of Medicine de Houston, tháng năm 2019).
Một hướng nghiên cứu khác, rất cải tiến, được thăm dò bởi những nhà nghiên cứu Thụy Sĩ : vai trò của giống (genre).” Những khác nhau lâm sàng được quan sát có thể do giới tính sinh học (sexe biologique), chúng có thể phát xuất từ điều mà ta gọi là “giới tính xã hội” (sexe social), nghĩa là được gán cho bởi xã hội, chi phối sự giáo dục của chúng ta, những hoạt động của chúng ta, những điều kiện sống của chúng ta”, Maria Teresa Ferretti đã nói như vậy. Điều này được xác nhận bởi Annemarie Schumacher Dimesh : ” Nếu những thay đổi kích thích tố có thể giải thích một trầm cảm hậu sản (dépression postpartum), giống cũng có liên quan. Thật vậy, trong phần lớn những văn hóa, các phụ nữ được xem như những “aidante” chính, những người chăm lo gia đình, điều này sinh ra ở họ nhiều stress hơn và tạo điều kiện cho những triệu chứng trầm cảm.” Cuối cùng đó là một tin vui, bởi vì ” trái với những yếu tố sinh học rất khó thay đổi, những yếu tố liên kết với giống, chúng, có thể biến đổi được”, nhà nghiên cứu nói tiếp.
TUYỂN MỘ NHỮNG NGƯỜI THUỘC HAI GIỚI TÍNH TRONG NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Hướng giống (piste du genre) có thể tỏ ra thích đáng để giải thích số trường hợp quan trọng những tai biến mạch máu não, do tắc một huyết quản tưới máu não, chịu trách nhiệm 19.000 trường hợp tử vong của phụ nữ năm 2013 so với 13.000 đàn ông. Một phân tích méta châu Âu, được công bố năm 2017 trong tạp chí Nature Reviews Neurology, tiết lộ rằng ” những phụ nữ, đã từng bị cao huyết áp hay một tiền sản giật hay một sản giật trong khi mang thai, có nguy cơ cao bị tai biến mạch máu não khi họ đạt đến lục tuần, GS Charlotte Cordonnier, của UMR Inserm 1171, đã giải thích như vậy. Mặc dầu những kích thích tố và những sự khác nhau của quá trình đông máu hiện hữu giữa hai giới tính có thể giải thích một phần những sự thay đổi này, nhưng có một yếu tố khác được chú ý. ” Nhà khoa học đã nhận xét rằng trên quy mô thế giới, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu não đã gia tăng nhiều hơn ở các phụ nữ trong những nước đã chịu một tình huống chiến tranh hay tai họa thiên nhiên. ” Điều đó có liên hệ đến stress không ? Đến một sự tiếp cận điều trị ít hơn trong những nước trong tình huống khó khăn ? Dẫu sao điều đó cũng phản ánh sự không bằng nhau về điều trị trong xã hội nói chung “, nhà chuyên gia tham gia vào Diễn đàn của WBP đã kết luận như vậy.
Ở đại học Zurich, những chuyên gia cũng sẽ thảo luận về phản ứng đối với thuốc, ở đây lại khác nhau tùy theo giới tính : ” Vào năm 2013 FDA đã phải cho biến đổi notice d’emploi của Zolpidem (stilnox), được kê đơn cho những rối loạn giấc ngủ, Antonella Santuccione Chadha, đã nhắc lại như vậy. Thật vậy liều lượng được giảm một nửa đối với phụ nữ vì lẽ những tác dụng phụ lúc thức dậy.” Tại sao những dữ kiện này chỉ được công bố bây giờ ? ” Bởi vì khoa học, cho mãi đến rất gần đây, được làm chủ yếu bởi những người đàn ông, trên những mô hình chủ yếu nam giới, ngay cả ở động vật ! Thế mà các phụ nữ không phải là những người đàn ông với mô hình thu nhỏ “, Cara Tannenbaum, giám đốc của Institut de la Santé des femmes et des hommes, ở Montréal (Canada), đã trả lời như vậy. Cần khuyến khích những kíp nghiên cứu báo cáo một cách hệ thống tác dụng của những yếu tố giới tính và giống trong những kết quả thí nghiệm và xem lại những công trình nghiên cứu của họ bằng những “chiếc kính mới ” này. Nhưng cũng cần…tuyển mộ những người thuộc hai giới tính vào trong công trình nghiên cứu, kể cả ở động vật, ở đây con đực được ưu tiên vì đuợc cho là nuôi nấng chúng đơn giản hơn.
MỘT PHONG TRÀO CHUNG ĐƯỢC KHỞI ĐỘNG.
Equipe của WBP đã thành công một thành tích bậc thầy đối với hành động cụ thể đầu tiên. Thật vậy, với giáo sư Herald Hampel, nhà nghiên cứu ở Viện não và tủy sống ở Paris, bà đã công bố một métaétude đầu tiên trong tạp chí uy tín Nature năm 2018, trình bày những khác nhau giữa đàn ông và đàn bà trong bệnh Alzheimer. Bệnh này xuất hiện sớm hơn ở phụ nữ và tiến triển nhanh hơn. ” Với bài báo này, cộng đồng khoa học đã bắt đầu cho WBP là quan trọng “, Maria Teresa Ferretti đã ghi chú như vậy. Và một phong trào chung đã bắt đầu theo cách điều đã được thực hiện ở Canada, ” ở đây, từ năm 2010, cơ quan tài chánh quốc gia yêu cầu các nhà nghiên cứu biện minh giới tính và giống của những chủ đề nghiên cứu của họ “, Cara Tannenbaum đã lấy làm hoan hỉ như thế. ” Từ nay 60% những nhà nghiên cứu thực hiện điều đó so với 20% cách nay 10 năm.” Ở Hoa Kỳ, những Viện y tế quốc gia từ nay cũng xét đến những biến số này. ” Phong trào này có tính chất quốc tế, Charlotte Cordonnier đã đảm bảo như vậy. Đối với Cara Tannenbaum, tất cả các phụ nữ đóng một vai trò để làm tiến triển tình hình. ” Hỏi một cách hệ thống thầy thuốc của mình loại thuốc mà ông ta kê đơn có đã được trắc nghiệm ở các phụ nữ không, liều lượng của thuốc có được thích ứng không, …, đó là làm lưu hành thông tin để thay đổi văn hóa.”
Tuy nhiên những tiếng nói khác kêu gọi giữ gìn ý tứ. Như tiếng nói của Gina Rippon, nhà nghiên cứu neurosciences cognitive của đại học Aston de Birmingham (Vương quốc Anh). ” Tôi ý thức những khác nhau giữa các giới tính đối với tỷ lệ mắc vài bệnh vật lý và tâm thần, bà đã bình luận như vậy, tuy nhiên tôi khuyên phải tỏ ra thận trọng trước khi phỏng đoán rằng chúng có thể được gán cho những não được hữu tính hóa.”
Nguy cơ quan trọng là, đối với bà, làm tăng thêm những stéréotype có hại cho các phụ nữ, về hành vi, năng lực nhận thức (capacités cognitives), khả năng của họ…” Không nên thổi phồng những khác nhau, cũng không nên phân biệt bất cứ ai vì những dị biệt này, nhưng phủ nhận chúng cũng sẽ là nguy hiểm”, Cara Tannenbaum đã trả lời như vậy. Não bộ không hồng cũng không xanh nhưng khác nhau. Cuộc tranh luận phải được thực hiện theo một nhãn quan duy nhất, nhãn quan của sự bình đẳng, chắc chắn là như vậy.
(SCIENCES ET AVENIR 6/2019)
5/ Y KHOA : NHỮNG KHÁC NHAU GIỮA ĐÀN ÔNG-ĐÀN BÀ KHÔNG ĐƯỢC CHÚ Ý ĐẾN
Nước Pháp rất chậm trễ trong lãnh vực này, dầu đó là trong nghiên cứu hay trong sự lựa chọn những điều trị.BIOLOGIE. ” Các thầy thuốc phạm lỗi là không tìm hỏi một cách chính xác nguyên nhân của căn bệnh và điều trị nó như thể đó là một bệnh của nam giới…Ngay từ đầu phải hỏi một cách cận thận về nguyên nhân ; bởi vì những bệnh của các phụ nữ và những bệnh của đàn ông khác nhau nhiều đối với điều trị.” Những lời nói khiến phải cười nếu, hơn hai ngàn năm sau khi đã được viết bởi Hippocrate, chúng luôn luôn không được áp dụng ở Pháp.
Bởi vì, về vấn đề đó, nếu nhiều nước đã tốn thời gian để hiểu tầm quan trọng cần phân biệt, tùy theo ta là một người đàn ông hay một phụ nữ, sự nghiên cứu về các bệnh và những điều trị phải được liên kết,” nước Pháp đã tích lũy một sự chậm trễ, ít nhất 10 năm, so với những nước châu Âu khác (Đức, Hòa Lan, Thụy Điển, Ý), Canada, nhất là Hoa Kỳ hay cả Israel”, Claudine Junien, nhà di truyền học đã giải thích như vậy.
” Đó là một cơ may lớn khi Académie đảm trách chủ đề này, Claudine Junien, người đàn bà dạy ở đại học y khoa Paris-Ouest đã nhấn mạnh như vậy, bởi vì, ở Pháp, người ta bận tâm nhiều về sự ngang nhau về giới tính, nhưng cũng phải làm nhận thức sexe biologique “, bà đã nhấn mạnh như vậy.
Một sự cần thiết hôm nay dựa trên những điều chứng thực hoàn toàn được xác nhận. Trước hết ta biết rằng, ngay lúc thụ thai, phôi thai đực không hành xử cùng cách với phôi thai cái và điều này, ngay cả khi ” những kích thích tố sinh dục chưa xuất hiện “, nhà di truyền học đã báo cáo như vậy. Nếu sự giống nhau di truyền về mặt séquence giữa hai người đàn ông và đàn bà là 99,9%, sự giống nhau giữa một người đàn ông và một người đàn bà chỉ 98,5%. Thế mà “đó cũng tỷ lệ giữa một con người và một chimpanzé cùng giới tính”, bà ta đã nhấn mạnh như vậy.
Về phía bệnh, những thí dụ về những khác nhau rõ rệt giữa hai giới tính không thiếu. Và bệnh phần lớn xảy ra ở phụ nữ : Alzheimer, anorexie, trầm cảm, bệnh loãng xương, những rối loạn ăn uống, những bệnh tự miễn dịch (những bệnh tuyến giáp, xơ cứng rải rác, lupus)…Trong khi đó những bệnh khác thường gặp hơn ở đàn ông : u não và tụy tạng, tai biến mạch máu não thiếu máu cục bộ (AVC ischémique)…Thế mà, một cách nghịch lý, những công trình nghiên cứu chung quanh những bệnh này và về những cách điều trị chúng vẫn còn rất tập trung vào giống nam.
” Trong thời gian rất lâu, người ta đã không muốn rằng những phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ tham gia vào những trắc nghiệm “, Claudine Junien đã kể lại như vậy. Chính vì thế, bởi vì những tác dụng phụ của các thuốc được đánh giá chủ yếu ở đàn ông, nên các phụ nữ thường hơn là những nạn nhân : 1,5 đến 2 lần nhiều tai biến phụ hơn, ” điều này là một phí tổn về người và tài chánh quá mức “, Académie đã nhắc lại như vậy.
Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Olympia Snowe nhắc lại rằng, trong những năm 1980, một công trình nghiên cứu tiền phong, “được tài trợ bởi chánh quyền liên bang, về mối liên hệ giữa chứng béo phì và ung thư vú và tử cung, đã được thực hiện duy nhất với những người đàn ông “! Sự bất quân bình này cũng xảy ra ngay cả với thí nghiệm động vật, trong đó những động vật được trắc nghiệm 5 lần ở con đực thường hơn ở con cái, Académie de médecine đã xác nhận như vậy. Điều đó cũng tương ứng với những biais statistiques. ” Đôi khi những khác nhau là nhỏ đến độ người ta tự bảo rằng không mất công nói về điều đó “, Nicolas Gauvrit, giảng viên science cognitive ở đại học Artois đã nói như vậy.
Trong những năm 1990, một thầy thuốc chuyên khoa tim Hoa Kỳ, Bernardine Healy, tố cáo sự kiện rằng một phụ nữ phải có một trái tim hoạt động tốt như trái tim của một người đàn ông để được điều trị một cách thích hợp, Peggy Sastre, philosophe và essayiste, đã dành một cuốn sách cho những vấn đề này, đã báo cáo như vậy.
” Médecine de genre không phải là một médecine de femmes, đó đúng hơn là một médecine personalisée”, GS Vera Regitz-Zagrosek, cardiologue, đã thành lập năm 2003 Institut du genre en médecine trong hopital de la Charité à Berlin, đã giải thích như vậy. Còn về tim, có những dữ kiện thích hợp cho mỗi giới tính là hoàn toàn quan trọng. Bởi vì ta biết rất rõ rằng vài điều trị hiệu quả tốt hơn ở những người đàn ông hơn là ở những người đàn bà.
Xét lại một cách cơ bản những nguyên tắc được xác lập về nghiên cứu cơ bản và lâm sàng để minh định những khác nhau sinh học liên quan đến giới tính, những contraintes sociales liên kết với giống, dự kiến và giải thích những công trình nghiên cứu trên người hay động vật đồng thời xét đến giới tính, đào tạo những thầy thuốc cho những vấn đề này, đó là vài trong những khuyến nghị của Académie de médecine. Nó có sẽ được lắng nghe không ?
(LE FIGARO 29/8/2016)
6/ THỂ THAO PHỤ NỮ : COI CHỪNG CÁI ĐẦU !Trong khi coupe bóng đá thế giới của phụ nữ diễn ra ở Paris ngày 7/6 đến 7/7, điều chứng thực gây lo lắng. ” Những nghiên cứu gợi ý rằng các vận động viên nữ bị một nguy cơ chấn động não lớn hơn, liên kết với thể thao mà các vận động viên nam thực hành những môn tương tự (bóng đá, basketball), một bài báo tổng hợp của kíp nghiên cứu của Tracey Covassin của đại học của tiểu bang Michigan, được công bố năm 2018, đã chứng thực như vậy. ” Ngoài ra, những vận động viên nữ đã báo một số lớn hơn những triệu chứng và những rối loạn neurocognitif sau một chấn động não. ” Ngoài những nguy cơ khác ra, ” những chấn động não lập lại của đầu và cổ có thể dẫn đến một déclin cognitif hay một sa sút trí tuệ tiếp theo sau một bệnh thoái hóa-thần kinh của não bộ “. BS Katrin Rauen, nhà nghiên cứu và thần kinh học ở bệnh viện tâm thần của đại học Zurich (Thụy sĩ), thành viên của Women’s brain project.” Những lý thuyết hiện nay về những nguy cơ này dựa trên những khác nhau sinh-cơ học (biomécanique) của vùng đầu-cổ và những khác nhau về kích thích tố giữa đàn ông và đàn bà, Katrin Rauen nói tiếp, nhưng thiếu những kiến thức.” Để nghiên cứu những sự kiện này, một tổ chức mới có mục đích không lợi nhuận, PINK Concussions (“chấn động não hồng”) đã ra đời. Đối với nhà chuyên gia, phải làm nhạy cảm hóa các vận động viên nữ và gia tăng sự bảo vệ họ, ” nhất là bằng cách tránh những va chạm lên đầu và cơ và ưu tiên tăng cường các trương lực cơ của cổ và thân.”
(SCIENCES ET AVENIR 6/2019)
7/ MỘT PHUƠNG PHÁP DI TRUYỀN CHƯA TỪNG CÓ CHỒNG UNG THƯ TỤY TẠNG
Được trình bày ở hội nghị thế giới về ung thư vừa qua ở Chicago, một công trình nghiên cứu cho hy vọng gia tăng tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân nạn nhân của căn bệnh đáng sợ này.Nói chung hiếm khi có những tin “vui” khi ta gợi ra ung thư tụy tạng, một trong những ung thư đáng sợ nhất, nguyên nhân thứ tư gây tử vong do ung thư mà ta đếm được 12.000 trường hợp mới mỗi năm ở Pháp. Tuy vậy, một nghiên cứu lâm sàng cho hy vọng một phương pháp mới. Phương pháp này đã được trình bày nhân hội nghị vừa qua được tổ chức bởi ASCO (American Society of Cancer Oncology), diễn ra ở Chicago (Hoa Kỳ) từ 31 tháng năm đến 4 tháng sáu 2019. Trong thử nghiệm này 1/3 bệnh nhân luôn luôn còn sống sau hai năm, trong khi tỷ lệ sống sót hiếm khi vượt quá một năm mỗi khi chẩn đoán được thiết đặt. Tất cả những giai đoạn tính đồ đồng, tỷ lệ sống sót lúc 5 năm hôm nay chỉ là 5%, nhất là bởi vì phẫu thuật chỉ có thể được thực hiện trong 1 trường hợp trên 5.
MỘT ĐIỀU TRỊ TÙY THEO NHỮNG BIẾN DỊ DI TRUYỀN
Lần đầu tiên, các thầy thuốc của bệnh viện đại học Chicago đã sử dụng một điều trị được chỉnh tùy theo những biến dị di truyền của ung thư, như điều đó đã được thực hiện đối với ung thư vú, phổi hay đại tràng. Những biến dị được biết nhất là những biến dị của các gène BRCA1 và của BRCA2, liên kết với một nguy cơ gia tăng bị ung thư vú và buồng trứng. Từ nhiều năm nay, những công trình đã báo cáo rằng chúng cũng có thể được liên kết với những loại u ung thư khác, như của tiền liệt tuyến và của tụy tạng. Chính vì vậy, những nhà nghiên cứu của công trình nghiên cứu POLO (Pancreas Cancer olaparib ongoing) đã chú ý đến ung thư tụy tạng. Khoảng 10% những bệnh nhân liên hệ có những biến dị trên các gène BRCA1 và BRCA2. Các thầy thuốc đã tập trung vào 154 người trong số họ, mà khối u, được điều trị bằng hóa trị cổ điển với platine trong 16 tuần, đã không tiến triển. Họ đã phân những bệnh nhân này thành hai nhóm : nhóm thứ nhất nhận, ngoài platine, olaparib, một phân tử của họ những inhibiteur de l’enzyme PARP (polyADP ribose polymérase), nhóm thứ hai nhận một placebo. Những kết quả đã cho thấy rằng những di căn đã tiến triển ít nhanh hơn trong nhóm olaparib, như thể phân tử này cho phép phong bế sự phát triển của khối u. Ở những bệnh nhân này, khối u đã vẫn ổn định trong 7,4 tháng so với 3,8 tháng ở những bệnh nhân của nhóm placebo. Bây giờ sự thuyên giảm này phải được xác nhận trong thời gian dài hạn hơn bằng những con số sống sót toàn bộ.
CÓ THỂ KIỂM SOÁT BỆNH
Mặc dầu tác giả chính của công trình nghiên cứu, nhà ung thư học Hoa Kỳ Hedy Kindler, đã đánh giá rằng công trình của bà mở đường cho một kỷ nguyên mới điều trị cá thể hóa (soins personnalisés) đối với một ung thư đặc biệt khó điều trị, bà cũng minh định rõ rằng ” đó không hề là một sự chữa lành. Nhưng ở vài bệnh nhân có thể kiểm soát được căn bệnh.”
Mặc dầu công trình nghiên cứu đầy hứa hẹn này, nhưng vẫn còn nhiều điều cần phải hiểu về những cơ chế nguồn gốc của ung thư tụy tạng. Thế mà, một báo cáo châu Âu được công bố vào tháng hai tiết lộ rằng sự nghiên cứu về loại ung thư này nhận dưới 2% những kinh phí. Tuy vậy, nếu không một biện pháp nào được thực hiện, căn bệnh này có thể trở thành nguyên nhân thứ hai gây tử vong do ung thư ở châu Âu từ nay đến 2020.
(SCIENCES ET AVENIR 7-8/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 472 : bài số 6
– TSTH số 384 : bài số 1, 2, 3
– TSYH số 344 : bài số 8
8/ UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT : LÂM BỆNH NHÂN ĐỠ ĐAU.
Ít đau đớn hơn và một chất lượng sống tốt hơn đối với những bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến, bệnh thường gặp nhất ở đàn ông, với khoảng 55.000 trường hợp mới mỗi năm ở Pháp. Đó là điều được hứa hẹn bởi một công trình nghiên cứu được trình bày ở hội nghị về ung thư ở Chicago. Những món lợi này đối với bệnh nhân có được nhờ sự thêm vào trong điều trị một phân tử mới, darolutamide, một chất ức chế androgène, được phát triển boi laboratoire Phần Lan Orion và boi groupe pharmaceutique Bayer của Đức. Công trình nghiên cứu Aramis ngoài ra cho thấy r ở những bệnh nhân để kháng với điều trị, sự xuất hiện của những di căn được làm chậm lại 40 tháng so với 18 tháng trong nhóm không nhận thuốc darolutamide.
(SCIENCES ET VIE 7-8/2019)
9/ ALZHEIMER : SAU CÙNG MỘT TRẮC NGHIỆM ĐIỀU TRA PHÁT HIỆN !
Một trắc nghiệm sinh học phát hiện sớm hơn bệnh Alzheimer, được hiệu chính bởi BS Romain Verpillot, docteur en chimie analytique, chủ tịch và đồng sáng lập Alzohis, Paris, đến trên thị trường.
Hỏi : Hôm nay bệnh Alzheimer biểu hiện gì bằng những con số ?
BS Romain Verpillot : Khoảng 50 triệu bệnh nhân trên thế giới, 900.000 ở Pháp với 200.000 trường hợp mới mỗi năm. Thường nhất đó là những dạng riêng rẻ, nhiều yếu tố, xảy ra ở 2 đến 4% những người trên 65 tuổi và 15% những người trên 80 tuổi, những phụ nữ hơi nhiều hơn đàn ông (60% so với 40%). Những dạng thuần di truyền xuất hiện trước 50-55 tuổi là hiếm (1-2% những trường hợp). Hôm nay không có một điều trị chữa lành nào hiện hữu đối với căn bệnh này.
Hỏi : Tại sao trong những tình trạng này một chẩn đoán sớm có tầm quan trọng ?
BS Romain Verpillot : Vì nhiều lý do : 1. Ở giai đoạn của những dấu hiệu lâm sàng, bệnh Alzheimer đã rất tiến triển và không thể kiểm soát được, do đó những thất bại điều trị được chứng thực cho đến nay. 2. Nhiều phương cách đang được phát triển, thuốc hay những phương thức khác, vẫn có thể làm ngừng hay chữa lành căn bệnh nếu chúng được sử dụng trước giai đoạn này. 3. Ta hành động càng sớm, sự điều trị càng tốt. Nó có lợi cho bệnh nhân cũng như gia đình. Nó cho phép nhận diện một centre médical de suivi và sử dụng những vũ khí phòng ngừa được biết. 4. Thí dụ ta biết rằng thể dục đều đặn và entrainement cognitif (kích thích bằng âm nhạc, những điều của nghệ thuật, những exercice de mémorisation) có thể làm chậm nhiều năm sự tiến triển !
Hỏi : Mục tiêu của trắc nghiệm của ông, và nguyên tắc của nó ?
BS Romain Verpillot : Thời gian tiến triển im lặng của căn bệnh là 20 đến 30 năm, tiếp theo bởi một thời kỳ tiền triệu (période prodromique), trong đó những rối loạn báo bão rất kín đáo xuất hiện, 5 đến 10 năm trước khi những dấu hiệu điển hình của chứng sa sút trí tuệ này xuất hiện, được chế ngự bởi những thiếu sót về trí nhớ. Trắc nghiệm của chúng tôi có khả năng phát hiện bệnh trong thời kỳ tiền triệu, thậm chí còn trước nó một chút. Trắc nghiệm dựa trên sự định lượng những chất dẫn truyền thần kinh được gọi là catécholamines, được biết từ lâu, chủ yếu noradrénaline và dopamine. Chúng tôi đã khám phá và cho thấy trong những công trình nghiên cứu của chúng tôi rằng những nồng độ của những phân tử này bị biến đổi sớm trong bệnh và những thay đổi của chúng tương quan đúng với tình trạng lâm sàng. Chúng tôi đã nhận diện những ngưỡng, ở đó những nồng độ có ý nghĩa, làm gia tăng tính nhạy cảm của trắc nghiệm khi liên kết nó với những score MMSE (trắc nghiệm được thực hiện bằng những câu hỏi ngắn, được sử dụng nhiều nhất trên thế giới để đánh giá état cognitif của người ta) của mọi bệnh nhân và phát triển một algorithme phân biệt mạnh. Tóm lại, phương thức của chúng tôi, được gọi NoraTest, cho phép chúng tôi phân biệt một cách rõ ràng bệnh Alzheimer với những sa sút trí tuệ khác và định rõ mức độ nghiêm trọng của nó.
Hỏi : Tại sao trắc nghiệm của ông báo động tốt hơn những protéine đặc hiệu của bệnh Alzheimer ?
BS Romain Verpillot : Nếu quả thật là những protéine bất thường beta-amyloide (A 40 và 42) và tau, tạo những thương tổn não đặc trưng cho bệnh Alzheimer, thì những vết sinh học của chúng quá muộn trong dịch não tủy (thăm dò xâm nhập chỉ được thực hiện trong 13% những trường hợp) và còn muộn hơn trong máu, ở đây khó định lượng chúng. Ảnh hưởng rất đặc biệt của chúng lên các catécholamine là một chữ ký (signature) độc nhất có thể thấy được sớm hơn nhiều. Những trắc nghiệm khác có lẽ sẽ được hiệu chính. Hiện nay, trắc nghiệm của chúng tôi, ngay cuối năm 2019, là trắc nghiệm đầu tiên trên thế giới được thương mãi hóa.
Hỏi : NoraTest sẽ dành cho ai ?
BS Romain Verpillot : Ưu tiên cho những bệnh nhân 55 tuổi hoặc hơn bị những rối loạn trí nhớ. Sự định lượng catécholamines sẽ có thể, từ một xét nghiệm máu đơn thuần, được thực hiện trong bất cứ phòng xét nghiệm nào ; phòng xét nghiệm này, qua Internet, sẽ sử dụng logiciel của chúng tôi (cần thiết để giải thích những kết quả) trước khi chuyển chúng, sau vài ngày, cho bệnh nhân và cho thầy thuốc điều trị.
(PARIS MATCH 24/10-30/10/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 470 : bài số 7
– TSYH số 450 : bài số 5
10. UNG THƯ : PHÁT HIỆN SỚM.
Trắc nghiệm, được hiệu chính bởi một kíp những nhà nghiên cứu của Dana-Farber Institute de Boston, chỉ đòi hỏi một xét nghiệm máu đơn thuần. Ta đã biết những sinh thiết dịch (biopsies liquides), tìm cách phát hiện, trong tuần hoàn, ADN tumoral phát xuất từ những tế bào ác tính, ngay cả trước khi một ung thư có thể thấy được trong chụp hình ảnh hay biểu hiện trên phương diện lâm sàng.
Trắc nghiệm này nhằm nhận diện những “méthylations de l’ADN”, để nhắm đến hơn và cung cấp thông tin hơn những biến dị của ADN tumoral. Giải thích : gốc méthyle (CH3), khi dính chặt vào vài gène, biến đổi sự biểu hiện của chúng theo chiều hướng của một sự ức chế hay một sự kích hoạt của những gène này, mà không làm thay đổi cấu trúc của chúng (biến dị). Không có ung thư nào mà không có những méthylation bất thường liên kết. Trắc nghiệm Hoa Kỳ, dựa trên một công trình nghiên cứu trên 1500 mẫu nghiệm máu với ung thư và 2000 không ung thư, đã tỏ ra đặc hiệu để phát hiện chúng trong 99,4% những trường hợp với chỉ 0,6% dương tính giả. Tùy theo loại méthylation bất thường được phát hiện, nó có thể tiên đoán nguồn gốc của khoảng 20 loại ung thư khác nhau !
(PARIS MATCH 31/10-6/11/2019)
Đọc thêm : TSYH số 477 : bài số 4
TSYH số 383 : bài số 6
TSYH số 368 : bài số 4
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(18/11/2019)