Thời sự y học số 519 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ CATHÉTÉRISME : PHƯƠNG THỨC ĐƠN GIẢN… NHƯNG TỪ LÂU KHÔNG ĐƯỢC BIẾT ĐẾN.
Sự khám phá các tia X bởi Wilhelm Roentgen năm 1895, được tiết lộ cho thế giới ngày 13 tháng giêng năm 1896, dẫn đến sự ra đời của radiologie.
Vào đầu thế kỷ XX, radiologie cho phép khám ngực bằng soi tia X radioscopie dưới écran (radioscopie), nhất là để phát hiện bệnh lao, và những hình ảnh đẹp của khung xương bởi vì các xương, hơn là các mô mềm, làm dừng và hấp thụ các tia X. Ta đã chỉ có thể chụp X quang phía trong các cơ quan, bắt đầu bởi ống tiêu hóa, vào năm 1920, nhờ các chất như sulfate de baryum, vừa cản quang với các tia này, vừa ít độc, có thể cho bằng đường miệng và có thể sát vào một cách đúng đắn các thành trong của ruột. Áp dụng nguyên tắc này cho một động mạch não, người Bồ đào nha Egas Moniz đã thực hiện năm 1922 artériographie đầu tiên chỉ bằng cách tiêm một chất iodé cản quang với Rx.Nhưng ta còn xa mới có thể có được hình ảnh của một động mạch sâu hay các xoang của tim, điều này chỉ có thể thực hiện nhờ cathétérisme. Nguyên tắc của ông, theo lý thuyết, là đơn giản. Thủ thuật nhằm đưa vào trong một huyết quản, dưới sự kiểm soát của X quang, một ống rất mảnh (cathéter), mà ta đẩy càng xa nếu cần cho đến tận động mạch, tĩnh mạch hay xoang tim mà ta mong muốn chụp X quang. Sau đó ta tiêm trong cathéter chất cản quang rồi ta chụp.
Vào năm 1929, thời kỳ trong đó BS Werner Forssmann hành nghề thầy thuốc ngoại khoa ở bệnh viện Eberswalde, ở bắc Berlin, một thủ thuật như thế là không tưởng tượng được.
Trừ đối với ông ta. Trong lúc giở các trang của một cuốn sách thú y, một tranh trang cho thấy một ống rất mảnh được đưa lên trong tĩnh mạch của một con ngựa, điều này đã làm ông phải suy nghĩ. Thế thì nếu ta thực hiện theo cùng cách như vậy ở người, ông đã nghĩ như vậy ? ” Nhưng để làm gì ? ” các đồng nghiệp của ông đã cãi lẽ như vậy.” Để thấy và cho thuốc một cách trực tiếp vào trong tim hay trong một cơ quan khác “, Forssmann giận dữ đáp lại. Đối với tất cả, ý tưởng này có vẻ kỳ cục và không có tương lai. Vì bệnh viện từ chối không cho ông sử dụng những cobaye để thí nghiệm, nên ông thử nó trên những tử thi và chứng thực rằng một cathéter bằng cao su có thể được đưa vào trong một tĩnh mạch của cánh tay lên đến tận nhĩ phải của tim. Sợ các đồng nghiệp chê bai nếu ông lập lại thủ thuật này ở một bệnh nhân sống, ông quyết định thí nghiệm trên chính mình (autoexpérimentation).
6 lần, một mình Forssmann thử mở một tĩnh mạch của mình và chuồi vào đó một ống. Nhưng ông thất bại…Một tuần sau, một đồng nghiệp giúp ông, nhưng, khi 30 cm cathéter đă biến mất trong thân thể của Forssmann và ông vẫn thản nhiên, người trợ tá đã hoảng sợ và từ chối tiếp tục. Cuối cùng, một nữ y tá cho phép ông đạt được mục đích của mình : trong khi y tá đẩy cathéter trong tĩnh mạch, Forsmann, đứng sau một màn ảnh soi X quang (écran de scopie), theo dõi sự tiến triển của ống này trên một chiếc gương. Một khi cathéter đến tim, với một sự bình tĩnh vô song, ông chạy bộ lên hai tầng lầu phân cách ông với salle de radiologie, yêu cầu inh ỏi người ta chụp cho ông một phim, bằng cớ không thể chối cãi dưới mắt ông. Ông có được phim chụp, công bố, trong sự hăng say, những công trình của ông năm 1931 nhưng chỉ nhận sự hững hờ của toàn thể.
Ít lâu sau, ông hay biết rằng một thầy thuốc người Đức, Fritz Bleichroder, đã nhiều lần đặt cathéter những tĩnh mạch của bệnh nhân, có lẽ trước ông nhưng không công bố gì cả.
Thất vọng, Forssmann giã từ bệnh viện và hành nghề như thầy thuốc đa khoa. Không thành công, bởi vì sự nổi tiếng là nhà thí nghiệm táo bạo đã làm hoảng sợ các bệnh nhân. Ông đi Berlin, ở đây ông làm việc đến năm 1944, và được tuyển mộ như thầy thuốc quân y trong quân đội Đức, rồi bị cầm tù một ít lâu sau chiến tranh. Được phóng thích, ông trở thành bác tiều phu…Ông vẫn còn là như thế cho đến năm 1956, khi người ta trao cho ông giải Nobel y khoa. Ông nhận giải cùng với những người Mỹ André Frédéric Cournand và Dickinson Richard.
Những người này, sau khi đã đọc tài liệu công bố của ông, đã tiến hành những công trình cơ bản về cathétérisme, trong một thế giới khi đó đang mở rộng. Vào năm 1958, những động mạch của tim mặc dầu nhỏ từng mm, được thông và chụp lần đầu tiên bởi người Mỹ Mason Sones.
Từ đó, không còn có một xó xỉnh nào trong cơ thể con người mà không thể tiếp cận, không có một cơ quan nào có thể thoát khỏi một thăm dò X quang sâu.
Ngày nay, cathétérisme, ngoài chụp hình ảnh, cho phép những điều trị nội mạch máu được tiến hành dưới sự kiểm soát X quang, không phải mổ, bằng chọc đơn thuần xuyên qua da, như giãn một mạch máu để đưa vào đó một stent (lò xo kim loại giữ mạch máu mở), đặt một pacemaker, emboliser phình động mạch của một động mạch não, qua trung gian những microparticule solide, để ngăn cản sự vỡ của nó, hay một cơ quan trở nên quá lớn (tiền liệt tuyến, tử cung) để phong bế tuần hoàn và làm giảm thể tích của nó. Nó cũng cho phép thực hiện những hóa trị chọn lọc cơ quan (chimiothérapie sélective d’organe) (thí dụ gan). Những kỹ thuật vi xâm nhập này đã có một vị trí đáng kể trong arsenal thérapeutique của rất nhiều nghành y khoa. Khi ta nghĩ đến chặng đường trải qua để phát triển một ý tưởng đơn giản như thế và khi ta nghĩ đến những áp dụng rộng rãi như thế, sự khinh bỉ của các đồng nghiệp của Forssmann vào năm 1929 ở Eberswalde trở lại tâm trí : cathétérisme ? Những để làm gì ?
(PARIS MATCH 29/-/9/2019)

2/ LÀM VIỆC BAN ĐÊM : NHỮNG NGUY CƠ ĐƯỢC XÁC NHẬN.
75% những người làm công, làm việc ban đêm, nhưng cũng làm việc ngày thứ bảy và 60% ngày chủ nhật.
Giấc ngủ, ung thư, chuyển hóa, sức khỏe tâm thần…Những hậu quả của một nhịp xê xích (un rythme décalé) ngày càng được biết tốt hơn.TRAVAIL. ” Phải tránh làm việc ban đêm nếu điều này không cần thiết : nó là một chất độc đối với sức khỏe, GS Claude Gronfier, chronobiologiste ở Inserm, đã nhấn mạnh như vậy. ” Luật dự kiến rằng sự làm việc ban đêm vẫn là ngoại lệ. Nhưng có nhiều phá luật, nhà nghiên cứu nói thêm, và hôm nay người ta ước tính rằng 15-20% những người làm việc về đêm. ” Tính khó nhọc của công việc về đêm được biết từ lâu, và trên lý thuyết nó phải được biện minh bởi sự cần thiết đảm bảo tính liên tục của hoạt động kinh tế hay những dịch vụ hữu ích xã hội, và xét đến những đòi hỏi cấp bách để bảo vệ sức khỏe của những người làm việc ban đêm. Tuy vậy, số những người làm việc ban đêm đã tăng gấp đôi trong 20 năm, đặc biệt hơn ở các phụ nữ, ở họ sự làm việc ban đêm bị cấm cho đến 2001 ! Từ nay, hơn 2/3 những người lao động có những giờ giấc không điển hình, xa với “semaine standard” (một ngày 8 giờ giữa 7 giờ và 20 giờ, với một nghỉ trưa, trong 5 ngày từ thứ hai đến thứ sáu, với hai ngày nghỉ liên tiếp), quy chế và những biện pháp bảo vệ vẫn còn căn cứ vào đó.
Nếu giấc ngủ và sự chăm chú (vigilance) là những nạn nhân đầu tiên của làm việc về đêm, từ nay nhiều công trình nghiên cứu chỉ một nguy cơ gia tăng đối với vài ung thư, cũng như một nguy cơ cao hơn bị hội chứng chuyển hóa (syndrome métabolique). Ảnh hưởng lên sức khỏe tâm thần của một đời sống bị xê xích (une vie décalée) và của một giấc ngủ khó khăn cũng đều đều được chỉ rõ.Cơ quan quốc gia về an toàn thực phẩm, môi trường và lao động (Anses) đã xác nhận, vào tháng sáu năm 2016, những quan sát của năm 2007 của Trung tâm quốc tế nghiên cứu ung thư (CIRC : Centre internetional pour la recherche sur le cancer) và những khuyến nghị 2012 của Bộ y tế. Trong ý kiến của mình, lấy lại toàn bộ văn liệu khoa học về những vấn đề này, Anses nhắc lại rằng sự làm việc theo ca và về đêm (travail posté/de nuit) có một hậu quả được xác nhận lên sự ngủ gà, giấc ngủ và sự xuất hiện của một hội chứng chuyển hóa (syndrome métabolique) và một hậu quả khả dĩ lên sức khỏe tâm thần, những hiệu năng nhận thức (performance cognitive), chứng béo phì và sự lên cân, bệnh đái đường loại 2, những bệnh động mạch vành và lên những ung thư khác nhau.
CIRC cũng đã công bố vào tháng sáu vừa qua một thỏa thuận rất rõ ràng, tuyên bố sự làm việc theo ca và về đêm (travail posté/de nuit) như là một yếu tố gây ung thư khả dĩ đối với loài người. Đến từ 16 nước, 27 chuyên gia họp ở Lyon đã quan sát rằng những công trình nghiên cứu trên người gợi ý rằng sự gia tăng nguy cơ đặc biệt được nhận diện đối với ung thư vú, nhất là trước thời kỳ mãn kinh và khi sự làm việc về đêm thường xảy ra và được theo đuổi lâu dài. Họ cũng nhấn mạnh một mối liên hệ khả dĩ với ung thư tiền liệt tuyến. Sự gia tăng của nguy cơ bị ung thư dường như được liên kết với một sự biến đổi trong sự sản xuất mélatonine, một sự rối loạn trong sự vận hành của các gène của đồng hồ sinh học và của những nhịp circadien.
Những rối loạn giấc ngủ là tín hiệu báo động đầu tiên đối với phần lớn những người làm việc với giờ giấc chênh lệch (travailleurs à horaires décalés). ” Những người làm việc phải được thông tin tốt hơn về những nguy cơ lên sức khỏe của họ : phần lớn những bệnh nhân làm việc theo ca của tôi đã không biết mối liên hệ giữa những giờ giấc làm việc và nhưng rối loạn giấc ngủ của họ “, GS Xavier, phụ trách service de neurophysiologie clinique của CHU de Poitiers đã lấy làm tiếc như vậy. ” Phải có một ý thức chính trị thật sự đối với những bảng giờ giấc ban đêm và những ca 12 giờ “, GS Gronfier đã nhấn mạnh như vậy. ” Trong tất cả những trường hợp này, nợ ngủ (dette de sommeil) là đáng kể, với những hậu quả y tế hôm nay được biết rõ và xã hội phải xét đến điều đó.”
Than ôi, sự công bố bảng báo cáo của ANSES và của Bộ y tế đã được tiếp theo, năm 2017, bởi một luật mới liên kết mọi khả năng tuyển dụng mới để làm việc ban đêm với một visite médicale et d’information nhưng dự kiến, thay vì visite médicale được dự kiến trước đây mỗi 6 tháng, một visite bắt buộc ít nhất mỗi 3 năm ! “Tôi thấy dường như điều đó là không đủ, BS Marie-Anne Gautier, thầy thuốc lao động của INRS (Institut national de recherche et de sécurité sur le travail) đã ghi nhận như vậy. Nhưng may mắn thay, chính médecin du travail ấn định tần số thăm khám.
(LE FIGARO 9/9/2019)

3. MỘT ĐỒNG HỒ QUAY TỪ HÀNG TRIỆU NĂM
Tôn trọng những luật lệ của thiên nhiên, hay biến mất…Dường như rằng, đối với sự tiến hóa của những giờ giấc làm việc cũng như đối với nhiều khía cạnh của cuộc sống hiện đại, sinh học luôn luôn đặt con người trở lại chỗ của nó. Cuộc sống theo một nhịp xê xích (rythme décalé) chống lại một trong những thích ứng đã ăn sâu nhất vào trong mọi sinh vật trên Trái Đất, mà sự quay của nó tạo một luân phiên đêm/ngày mỗi 24 giờ. Con người là một động vật hoạt động ban ngày : Những tế bào của nó được lên chương trình để cho phép nó một hoạt động tối đa ban ngày và một sự nghỉ ngơi tối ưu ban đêm. Biến đổi sự cân bằng này gây nên một stress mạnh, mà cơ thể chỉ có thể bù trong một thời gian ngắn.Mỗi cá nhân có một nhịp tế bào riêng, được chi phối bởi những gène được gọi là “d’ horloge” và làm một vòng mặt đồng hồ trong khoảng 24 giờ : đó là nhịp circadien. Nó thay đổi từ cá nhân này đến cá nhân khác, tạo những chronotype khác nhau : ngắn hơn, nó tạo điều kiện cho một hoạt động sớm vào buổi sáng, dài hơn nó lùi hoạt động về cuối ngày.
Tuy nhiên đồng hồ này được đặt lại giờ mỗi ngày bởi một ordinateur lớn nằm trong não, ở những hạch suprachiasmique của hypothalamus, tương quan với võng mạc. Vài photo-pigment, đặc biệt nhạy cảm với ánh sáng xanh, thông báo não bộ về sự xuất hiện của ngày để ấn định 24 giờ nycthémère (khoảng thời gian gồm một ngày và một đêm)
” Nếu chúng ta buộc phải làm việc ban đêm, có thể đảo ngược hoàn toàn nycthémère này, Anne-Marie François-Bellan, phụ trách équipe Inserm gènes, rythmes et neurophysiopathologie ở đại học Aix-Marseille, đã chỉ rõ như vậy. Để được như thế phải áp dụng một ánh sáng chói lọi trong đêm và một bóng tối hoàn toàn trong ngày.” Ở chuột, tại phòng thí nghiệm, dễ dàng đảo ngược hoàn toàn sự sản xuất mélatonine, thông tin cơ thể rằng đêm đến gần. Nhưng khó hơn nhiều khi cách ly hoàn toàn một con người ra khỏi môi trường của mình.
” Sự làm việc theo ca (travail posté) không những làm xê xích horloge préchiasmatique, mà còn những synchronisateur secondaire như gan “, Etienne Challet, giám đốc nghiên cứu CNRS ở Institut des neurosciences cellulaires et intégratives de Strasbourg, đã nói như vậy. Thật vậy nhịp circadien cũng chịu sự kiểm soát của sự tiêu hóa, và chuyển hóa tế bào tức thời bị ảnh hưởng bởi sự xê xích giờ giấc. Vậy phai tránh ăn muộn vào buổi chiều và trong đêm : không dễ khi ngày làm việc bắt đầu vào cuối buổi chiều hay giữa đêm !
Những mục tiêu đồng bộ hóa (synchronisation) hàng ngày của những đồng hồ khác nhau hiếm khi đạt được bởi những người luôn luôn làm việc ban đêm, và gần như không thể thực hiện đối với đại đa số, mà những giờ giấc thay đổi hay chỉ bị xê xích. Kết quả : một nhịp circadien khập khiễng, các tế bào không còn biết phải thực hiện những công việc nào vào lúc nào nữa, và những rối loạn xuất hiện rất nhanh.
(LE FIGARO 9/9/2019)

4/ TIÊU THỤ THỊT : NGUY CƠ TỬ VONG GIA TĂNG
Hai công trình nghiên cứu của Hoa Kỳ đã theo dõi trong 10 năm những thói quen ăn uống và sức khỏe của 53.553 phụ nữ (tuổi từ 30 đến 55) và 27.916 đàn ông (từ 40 đến 75 tuổi), không bị bệnh tim mạch và ung thư. Kết quả : một sự gia tăng tiêu thụ thịt, ít nhất một nửa của một suất mỗi ngày, được kèm theo, đối với hai giới tính, một nguy cơ tử vong gia tăng trung bình 10% trong 8 năm tiếp theo, dầu cho những yếu tố nguy cơ khác là gì (thuốc lá, rượu…). Ngược lại, một sự giảm tương đương của sự tiêu thụ thịt, liên kết với sự tiêu thụ ngũ cốc, rau xanh, trái cây có vỏ, cá, gia cầm và đồ sữa, được kèm theo bởi một sự giảm nguy cơ tử vong.
(PARIS MATCH 12/9-18/9/2019)

5/ LÀM VIỆC QUÁ NHIỀU GÂY NGUY HIỂM CHO NÃO BỘ
Làm việc hơn 10 giờ mỗi này gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu não.AVC. Cách nay vài tuần, Isabelle bị một tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (AIT : accident ischémique transitoire). Cơn đột qụy não ngắn ngủi này không để lại dấu vết nhưng không được xem nhẹ bởi vì, trong 20% những trường hợp, nó đi trước tai biến mạch máu não (AVC). Bệnh nhân 50 tuổi này tin chắc rằng nhịp điệu làm việc của bà đóng một vai trò trong sự xuất hiện báo động này. ” Tôi một mình nuôi dạy hai con ở Paris và để chi tiêu vừa khít, ngoài hoạt động lương tháng của tôi, vốn đã rất nhiều việc, nhiều năm nay tôi phải dịch thuật vào buổi chiều và weekend. Tôi kiệt sức “, bà ta đã kể lại như vậy. Isabelle có lẽ không nghĩ là mình nói đúng lắm. Thật vậy, một công trình nghiên cứu của Pháp, được công bố cuối tháng sáu trong tạp chí y khoa Stroke, vừa cho thấy rằng những người làm việc nhiều (gros travailleurs) bị đột quy não nhiều hơn những người làm việc ít. Nguy cơ tai biến mạch máu não gia tăng 29% ở những người làm việc hơn 10 giờ mỗi ngày, ít nhất 50 ngày mỗi năm. Một nguy hiểm gia tăng với thời gian. Như thế, khi tình huống kéo dài từ hơn 10 năm, nguy cơ gia tăng 45% ! Những kết quả này củng cố những kết quả của một công trình nghiên cứu được công bố trong tạp chí The Lancet năm 2015, cho thấy một sự tăng cao 33% nguy cơ ở những người làm việc vượt quá 55 giờ mỗi tuần. ” Tuy thế điều đó không phải là báo động. Nguy cơ vẫn thấp : nó chuyển từ 0,8 lên 0,93% “, giáo sư Alexis Descatha, chuyên gia những bệnh lý liên kết với sự làm việc ở bệnh viện Raymond-Poincaré và đồng tác giả của công trình nghiên cứu đã trấn an như vậy.
Mặt khác, nếu công trình nghiên cứu cho thấy một sự liên kết đáng kể giữa thời gian làm việc và nguy cơ đối với não bộ, nó không cho phép kết luận một mối liên hệ nhân quả, các nhà nghiên cứu đã định rõ như vậy, họ đã dựa trên những dữ kiện của cohorte française tập hợp 200.000 người tuổi từ 18 đến 69. Để giải thích sự liên kết này giáo sư Alexis Descatha, đưa ra hai giả thuyết : ” Làm việc một cách kéo dài trong những điều kiện xấu hay dưới áp lực có thể có một tác dụng trực tiếp bằng cách ảnh hưởng lên sự đông máu và nhịp tim. Những nguy cơ cũng gia tăng một cách gián tiếp do những biến đổi comportement liên kết với những giờ giấc này ” vị thầy thuốc đã xác nhận như vậy.
Những thời gian làm việc thêm thường được liên kết với stress, được biết làm gia tăng HA, yếu tố nguy cơ chính của đột qụy não. Về phương diện sinh lý, ban đêm huyết áp giảm 10 đến 20%. Chức năng bảo vệ này khi đó bị rối loạn bởi sự biến đổi của nhịp thức-ngủ “, GS Yannick Bejot, điều khiển Registre Dijon des AVC, nghiên cứu dịch tễ học của các bệnh mạch máu não, đã giải thích như vậy.
Làm việc về đêm cũng sẽ làm rối loạn sự ăn uống và sự tiết insuline, như thế lót đường cho sự tăng thể trọng và bệnh đái đường, những yếu tố khác của nguy cơ đột quy.
Một cách song hành, phần lớn những professionnel có một hoạt động mạnh coi thường vệ sinh đời sống của mình, do đó làm trầm trọng mối đe dọa. Thật vậy, từ công trình nghiên cứu quốc tế Interstroke, ta biết rằng 10 yếu tố có thể biến đổi góp phần vào sự xuất hiện của 90% những trường hợp đột qụy. Ngoài cao huyết áp, có chứng nghiện thuốc lá, một tỷ suất taille-vòng háng tăng cao, tình trạng nhàn rổi không hoạt động, một chế độ ăn uống bất thuận lợi cho sức khỏe hay một sự tiêu thụ cồn quá mức..” Ta cũng biết rằng sự sử dụng mãn tính các neuroleptique hay vài thuốc chống trầm cảm khả dĩ làm gia tăng nguy cơ “, giáo sư Norbert, trưởng khoa cấp cứu mạch máu thần kinh (urgences neurovasculaires) ở CHU de Lyon, đã định rõ như vậy.
Chính vì vậy, đối với những kẻ khó lê bước, các chuyên gia khuyến nghị họ điều chỉnh những thói quen trong cuộc sống và những hành vi có hại cho não bộ. ” Thí dụ đó là tránh ăn vội vàng những sandwich, bố trí những thời kỳ nghỉ ngơi hay ngừng thuốc lá và theo dõi sự tiêu thụ rượu..” giáo sư Yannick Bejot đã định rõ như vậy. Một sự phòng ngừa cần thiết hơn bao giờ hết khi ta biết rằng với 140.000 trường hợp mới mỗi năm, tai biến mạch máu não là nguyên nhân đầu tiên gây phế tật mắc phải hiện nay ở người trưởng thành và nguyên nhân thứ hai gây sa sút trí tuệ sau bệnh Alzheimer.
Và sau một tai biến đầu tiên, dầu đó xảy ra dưới dạng AIT (tai biến thiếu máu cục bộ não tạm thời) hay tai biến mạch máu não nhẹ không di chứng, cần phải tăng gấp đôi sự cảnh giác. ” Sau những biến cố này, 30 đến 50% những bệnh nhân mô tả trong nhiều tháng, một sự mệt cực kỳ với những rối loạn tập trung, chú ý và trí nhớ “, giáo sư Yannick Bejot đã xác nhận như vậy. Thế mà những người này, vì không có những di chứng có thể thấy được, nên không được thu xếp thời gian làm việc. Nếu họ đã bị quá tải trong công việc, có thể họ buộc phải có những hành vi nguy cơ gây nguy hiểm cho họ.
(LE FIGARO 1/7/2019)

6/ GEL CẦM MÁU CỰC MẠNH
Các nhà nghiên cứu Trung quốc của các đại học Zhejiang ở Hàn Châu và sciences et technologies Thượng Hải đã hiệu chính một colle biologique được dung nạp rất tốt, mạnh nhất được biết cho đến nay, có khả năng làm ngừng trong 30 giây những xuất huyết phát xuất từ những vết thương quan trọng (như những vết thương 5 mm chiều dài của một động mạch cảnh hay 6 mm của thành tim). Những thử nghiệm, rất có sức thuyết phục ở heo, cũng sẽ vậy ở người. Sự sửa chữa có được chống lại một áp lực động mạch 290 mmHg. Colle này bắt chước matrice extracellulaire của chúng ta, duy trì cấu trúc và sự dính của những tế bào với nhau. Ta dùng nó dưới dạng gel photoréactif, được hoạt hóa dưới tác dụng của một tia tử ngoại. Mục tiêu : làm giảm những xuất huyết khó cầm trong những thủ thuật ngoại khoa tế nhị (thí dụ những chấn thương quan trọng).
(PARIS MATCH 12/6-19/6/2019)

7/ RẮN CẮN : MỘT TAI HỌA KHÔNG ĐƯỢC CHÚ Ý ĐẾN
OMS mới đây đã tiết lộ kế hoạch chiến đấu để làm giảm 1/2, từ nay đến 2030, số những trường hợp tử vong và phế tật gây nên bởi rắn cắn. 3 triệu người mỗi năm bị cắn bởi những loài bò sát có nọc độc trên thế giới : hơn 100.000 người chết và 400.000 bị phế tật nặng. Cách nay 2 năm, OMS đã xếp loại tai ương này như là ” bệnh nhiệt đới bị coi thường nhất “. Những nạn nhân chủ yếu là những dân nghèo của những vùng nhiệt đới, nhất là các trẻ em. Những thuốc trừ nọc độc hiệu quả hiện hữu, nhưng sự sản xuất chúng đã bị giảm nhiều bởi các phòng bào chế, do đó thiếu hụt ở châu Phi và Đông nam Á. OMS muốn gia tăng số những chủ xí nghiệp và tạo một dự trữ thế giới những thuốc chống nọc độc.
(PARIS MATCH 19/9-25/9/2019)

8/ UNG THƯ ĐẠI-TRỰC TRÀNG : CHỨNG BÉO PHÌ TRÊN ĐƯỜNG NHẮM
Nhìn bề ngoài, các con số của ung thư đại trực tràng là khá phấn khởi : trong 28 năm qua, tỷ lệ của nó ổn định ở phụ nữ và đã giảm 0,6% mỗi năm ở đàn ông. Tuy nhiên, lớp những người già nhất hưởng được khuynh hướng này : ở đàn ông, tỷ lệ giảm yếu hơn ở những lớp tuổi trẻ (- 0,2% mỗi năm ở những người đàn ông 40 tuổi và – 0,4% ở những người 50 tuổi, so với – 0,7% ở những người 60 tuổi và – 0,9% ở những người 70 tuổi) ; ở phụ nữ, khuynh hướng ngay cả cao ở những người 40 tuổi và 50 tuổi (lần lượt + 0,9% và + 0,2% mỗi năm). Ở Hoa Kỳ, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy một sự gia tăng của tỷ lệ ung thư đại trực tràng ở những người trưởng thành trẻ, liên hệ với những chọn lựa ăn uống xấu, tình trạng nhàn rổi không hoạt động và tần số của chứng béo phì…cũng đang thắng thế ở Pháp.
(SCIENCE & VIE 9/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 396 : bài số 5, 6
– TSYH số 369 : bài số 6

9/ MÉLANOME : MỘT SỰ TĂNG CAO HOÀN TOÀN CÓ THỂ TRÁNH ĐƯỢC
Đó là một trong những ung thư mà những tỷ lệ đã gia tăng nhất giữa 1990 và 2018 : trung bình +4% mỗi năm ở đàn ông và +2,7% ở đàn bà. Tuy vậy sự tăng cao này không phải là không thể tránh được : 80% những trường hợp mélanome được quy cho sự tiếp xúc với những tia tử ngoại, và ở Úc, đất nước ở đó tỷ lệ mélanome là cao nhất thế giới (33,6 trường hợp mới đối với 100.000 người mỗi năm so với “chỉ” 14,2 ở Pháp), những chiến dịch phòng ngừa quan trọng đã cho phép đảo ngược khuynh hướng. Ở những người Úc dưới 40 tuổi, những người đã hưởng những chiến dịch này ngay khi còn bé, tỷ lệ mélanome từ nay giảm.
(SCIENCE & VIE 9/2019)

10/ LẠC QUAN VÀ TUỔI THỌ
Hai công trình nghiên cứu Hoa Kỳ đã đánh giá tác động của sự lạc quan so với bi quan lên tỷ lệ tử vong : một công trình được thực hiện ở 68.744 phụ nữ tuổi lúc khởi đầu từ 58 đến 86 tuổi và được theo dõi trong 10 năm, công trình kia ở 1429 đàn ông tuổi lúc khởi đầu từ 41 đến 90 tuổi và được theo dõi trong 30 năm. Những mức bi quan và lạc quan được đánh giá bằng những bảng câu hỏi. Kết quả : so với những người bi quan nhất, những người lạc quan nhất có một xác suất sống ít nhất đến 85 tuổi, 1,5 lần lớn hơn ở đàn ông và 1,7 lần lớn hơn ở đàn bà, điều này độc lập với những yêu tố nguy cơ đang có (tình trạng sức khỏe, rượu, thuốc lá..). Kết luận của các nhà nghiên cứu : tâm thần (psychisme) ảnh hưởng lên tuổi thọ. Nếu khí chất (humeur) di truyền 25%, nó cũng có thể được biến đổi bởi những yếu tố xã hội và một apprentissage (thiền định, liệu pháp hành vi…), điều này có thể cải thiện tuổi thọ.
(PARIS MATCH 26/9-2/10/2019)

11/ NHỮNG Ổ VI KHUẨN TRÊN NHỮNG ĐIỆN THOẠI CẦM TAY
..nhất là ở những nhân viên y tế ở bệnh viện. Một công trình nghiên cứu của Brésil, được thực hiện trên 100 điện thoại cầm tay (téléphones portables) của những thầy thuốc và những thực tập sinh y tá, đã cho thấy rằng tụ cầu khuẩn vàng (staphylocoque doré) đề kháng với các kháng sinh hiện diện trên 40% những điện thoại cầm tay !
(PARIS MATCH 12/9-18/9/2019)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(28/9/2019)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s