Thời sự y học số 514 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ ĐI VÀO KHÔNG GIAN ĐỂ HIỂU CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT
437 ngày liên tiếp trong trạm quỹ đạo Mir, đó là kỷ lục về thời gian của một con người trong không gian, được thiết lập bởi nhà du hành vũ trụ y sĩ (cosmonaute médecin) Valeri Poliakov)
Những tác dụng sinh lý lên cơ thể người của một nơi nghỉ trong một con tàu không gian không phải chỉ do tình trạng vô trọng lượng.MICROGRAVITÉ. ” Những cuộc du hành trong không gian xuất hiện như một kiểu mẫu tăng nhanh về những hậu quả của tình trạng bất hoạt lên cơ thể người ở đây, trên Trái đất, BS Marie-Pierre Bareille, người phối hợp của những công trình nghiên cứu stimulation spatiale ở Medes (Institut de médecien et de physiologie spatiale) đã nhấn mạnh như vậy. Sự quan sát các các nhà du hành vũ trụ, mặc dầu làm chúng ta mơ chinh phục không gian, luôn luôn cho phép chúng ta tự hỏi về sinh lý trên trái đất và khảo sát những giải pháp có thể áp dụng cho tất cả. ”
Ngay những chuyến du hành đầu tiên trong không gian, các nhà khoa học đã có thể quan sát những biến đổi sinh lý ở những nhà du hành vũ trụ khi họ trở về trái đất, liên kết với tình trạng vi trọng lực (micro-gravité). Mất xương, tan cơ và sự mất điều hòa tim-mạch (déconditionnement cardio-vasculaire) : bấy nhiêu những triệu chứng cũng được quan sát ở con người lão hóa và làm hy vọng rằng những thuốc được hiệu chính để bảo vệ những nhà du hành vũ trụ khỏi bị những bệnh của không gian này sẽ mang lại một đợt chữa hồi xuân cho những người dưới trần thế.
Tuy nhiên những thí nghiệm mới đây hơn đã phát hiện một yếu tố mới làm thay đổi tình hình : sự lão hóa sớm các động mạch của các nhà du hành không gian chỉ được liên kết một phần với tình trạng vi trọng lực. Thật vậy sự lão hóa này đã được quan sát trong những thử nghiệm giam hãm (essais de confinement) trong thời gian dài trên Trái đất, giữa tình trạng trọng lực và nó dường như được liên kết hơn với tình trạng căng thẳng của cuộc sống trong một môi trường giới hạn hay được liên kết với một chế độ ăn uống quá ít được đa dạng hóa.Loài người trong không gian chịu một tình trạng vô trọng c (impesanteur), biến đổi ngay trong những giờ đầu sự phân bố dịch trong cơ thể. Máu chảy dồn về phần trên của cơ thể và vào tim ; tim ghi thông tin này như là một sự thặng dư dịch, phát khởi một sự giảm của thể tích máu, trung bình 1,5 litre. Không một vấn đề nào đối với một nhà du hành vũ trụ chừng nào ông ta vẫn ở trên quỹ đạo nhưng, lúc trở lại Trái Đất, thể tích máu không còn đủ để tưới não nữa và ngất (syncope) hầu như không thể tránh được : 10 đến 15% những nhà du hành không gian còn bị ngất.
Trên thực tế hệ tim mạch không còn thích ứng nữa với những tình trạng trên trái đất. Sự mất điều hòa (déconditionnement) này cũng được áp dụng cho các cơ và khung xương : nếu không có trọng lực để chống lại nó, các cơ mất năng lực gắng sức (capacité d’effort) và các xương, đến lượt, mất sự kích thích thường xuyên của các cơ cần cho sự hoạt động của các tế bào xương (ostéocyte). Nếu không có hoạt động vật lý, tần số tim không gia tăng : biểu mô của các huyết quản không còn được kích thích nữa bởi những lực cọ xát và bắt đầu ở trong tình trạng nghỉ ngơi. ” Nó không còn sản xuất nữa vài yếu tố bảo vệ huyết quản, với một nguy cơ gia tăng bị xơ vữa động mạch “, GS Marc-Antoine Custaud, thuộc đại học Angers, tham dự từ nhiều năm vào những công trình nghiên cứu về những hậu quả tim mạch của sự lưu lại trong trong không gian. Tác dụng lão hóa này biến mất trong vài tháng sau khi trở lại trái đất. Những nhà du hành vũ trụ (những người du hành xa Trái đất 100 km đối với những người Mỹ) chịu vài sự mất cân bằng chuyển hóa, điều này làm dễ xơ vữa động mạch, sự cứng của thành động mạch hay sự thay thế khối cơ (masse musculaire) bằng khối mỡ (masse graisseuse).
Những thử nghiệm giam hãm (essais de confinement), được thực hiện trên Trái đất đã cho phép quan sát rằng vài trong số những tác dụng này không được liên kết với sự vắng mặt của trọng lực mà do một sự bất hoạt vật lý, giống như một sự liệt giường kéo dài (alitement prolongé) và những tình trạng khó khăn của cuộc sống trong một không gian giới hạn, ở cùng với những người trong nhiều tháng. Vào lúc những essai de stimulation par alitement, các nhà nghiên cứu quan sát thấy sự xuất hiện của một đề kháng với insuline hay một sự mất quân bình trong sự sử dụng những chất đường và mỡ, tương ứng với những giai đoạn đầu phát triển một bệnh đái đường.
Vài chỉ dấu (indicateur métabolique) cũng giống với điều được quan sát ở những người trên 50 tuổi, thường chịu những yếu tố nguy cơ như thuốc lá, một chế độ ăn uống không quân bình, một stress quan trọng và một sự thiếu hoạt động vật lý. ” Những nhà hàng không vũ trụ, trong điều kiện vật lý rất tốt và không có những nguy cơ này là một kiểu mẫu khá thuần khiết ve tình trạng không hoạt động vật lý trong tình huống stress tâm lý để hiểu tốt hơn một tình huống có thể xảy ra trên trái đất “, GS Custaud đã lấy làm phấn khởi như vậy.
Nếu sẽ phải còn vài năm nữa để hiểu tất cả những cơ chế chịu trách nhiệm những biến đổi này, vậy vài trong số những contre-mesure được áp dụng cho những nhà du hành vũ trụ có thể, ngay hôm nay, được áp dụng cho tất cả những con người trên trái đất để cải thiện sức khỏe của họ và có lẽ, tuổi thọ của họ. Đối với những người du hành đến sao Hỏa, thách thức thật sự sẽ không phải là chống lại trọng lực hay những bức xạ mà học cách chịu đựng những nhà du hành khác trong không gian quá nhỏ của một con thuyền không gian trong nhiều năm. Đi và trở về.
(LE FIGARO 11/4/2016)

2/ NHỮNG NGÔI SAO, TỪ MỘT CHIẾC GIƯỜNG HAY MỘT BỒN TẮM
Vô ích phải thuê một avion parabolique để giả vờ một cuộc du hành trên quỹ đạo, chỉ cần kinh qua vài tuần nằm trên một chiếc giường, đầu hơi hạ thấp hay vài ngày bồng bềnh trong một bồn tắm cũng “đủ”. Thật vậy sự nằm nghỉ kéo dài hay sự chìm khô (immersion sèche) cho phép trông như những tác dụng của vi trọng lực (microgravité) trên toàn bộ của cơ thể : những kỹ thuật này ngay cả đã cho phép đo những hậu quả chuyển hóa của tình trạng không hoạt động và stress liên kết với sự nhốt trong một căn phòng được chia sẻ với một người tình nguyện khác.
Hậu quả đầu tiên được quan sát : đau lưng ! ” Các nhà hàng không vũ trụ luôn luôn giành được vài centimètre trong khi du hành trên quỹ đạo, cột sống kéo dài ra “, GS Claude Gharib, giáo sư ưu tú ở Đại học Claude Bernard (Lyon) và chủ tịch của nhóm đánh giá khoa học đời sống ở CNES, đã định rõ như vậy. Loic Treffel, một trong những học trò của ông, là một ostéopathe và sửa soạn một luận án dành cho những tác dụng của những chuyến du hành không gian trên cột sống : ông đã chọn phương pháp sự chìm khô (immersion sèche), cho phép, trong chỉ ba ngày, có được những tác dụng được quan sát sau 21 ngày chỉ bằng một sự nằm nghỉ đầu thấp xuống. Thử nghiệm, được thực hiện ở clinique de l’espace (Medes) của bệnh viện Rangueil ở Toulouse, nhằm đặt một người tình nguyện trong một loại bồn tắm thích ứng (2,10 m x 1,10m x 0,85m), đặc biệt được dự kiến để dùng vào việc này và được đổ đầy nước. Một tấm vải đàn hồi đặc biệt, hoàn toàn không thấm nước, được cố định vào mép ngoài chung quanh bồn tắm và cho phép người tình nguyện được cách ly với nước. 12 người đàn ông lành mạnh, tuổi từ 20 đến 45, đã tham gia vào công trình nghiên cứu. Đo và đánh giá nhiều lần đã xảy ra trước, trong và sau thí nghiệm.
TAN TRƯƠNG LỰC CƠ
Nhiều người đã bị đau trong vùng thắt lưng rất nhanh, điều này được báo cáo bởi 2/3 những nhà du hành vũ trụ, ở họ ta quan sát sự hiện diện của những thoát vị đĩa (hernies discales), tồn tại một năm sau khi trở lại trái đất. Độ cong thắt lưng cũng giảm đi, với những đĩa đốt sống có khuynh hướng thoát ra phía sau. ” Những công trình nghiên cứu IRM mà tôi vừa thực hiện trên những người được chìm khô (immersion sèche) cho thấy rằng những đĩa liên đốt sống bị phồng lên và chứa từ 10 đến 30% nhiều nước hơn lúc bắt đầu thử nghiệm “, Loic Treffel đã chỉ rõ như vậy.
Sự tan và giảm trương lực cơ, tức thời khi các cơ không còn phải chống lại trọng lực, đóng một vai trò trong những quan sát này, mặc dầu những cơ chế không được biết rõ. ” Đó là lần đầu tiên mà những vấn đề này được thăm dò, nhà nghiên cứu nhấn mạnh như vậy. Chúng cho phép thích ứng những phương sách chống lại, và nhất là những buổi luyện tập vật lý, để bảo vệ tốt hơn hệ cơ sâu của những nhà phi hành và lưng của họ.”
(LE FIGARO 11/4/2016)
http://www.medes.fr/fr/index.html

3/ Y HỌC KHÔNG GIAN VÀ NHỮNG PHƯƠNG SÁCH CHỐNG LẠI GIỮA ĐẤT VÀ TRỜI
Máu chảy dồn về phần cao của cơ thể gây nên một sự gia tăng nhỏ của áp lực nội sọ và một phù của đáy mắt. Sự phù này rất thường gây nên một sự mất nhẹ thị lực ở những nhà du hành vũ trụ. ” Họ có khuynh hướng dấu tất cả những loạn năng nhỏ này của cơ thể họ để không bị đưa trở lại trái đất, GS Philippe Arbeille, chuyên gia về biophysique và médecine nucléaire ở CHU de Tours, đã kể lại như vậy. Chính sự quan sát tình cờ những sai lầm nhỏ khi đọc những con số, và một vấn chẩn đúng quy trình, cuối cùng đã phát hiện vấn đề này.”
Từ nay, các nhà du hành vũ trụ phải chịu mỗi ngày một thời kỳ bù cho sự tái phân bố dịch này. Các nhà hàng không vũ trụ Nga từ lâu sử dụng một loại bít tất (jarretière) để ngăn cản máu lên quá nhanh về phần trên của cơ thể. Những kíp khác đã chế tạo một loại scaphandre (áo phi công vũ trụ) nhằm ép phần dưới của cơ thể.
Những biến đổi chuyển hóa liên kết với stress và sự giam hãm có thể được bù bởi những complément alimentaire, như resvératrol, hiện đang được đánh giá.
Sự tan cơ và sự mất xương đặt lại vấn đề năng lực của những nhà du hành không gian thực hiện vài công tác. Những bài luyện tập vật lý, nhất là có tính chất đề kháng (résistif), đã được dự kiến để bảo dưỡng hệ cơ trong thời gian lưu lại trên không gian và thay thế những tác dụng có lợi của trọng lực lên bộ máy cơ-xương. Những bài tập luyện dai sức (exercice d’endurance) nhằm buộc hệ tim mạch vẫn hoạt động để giữ tính uyển chuyển khi không ở tư thế đứng.
Stress gây sự lão hóa sớm của các động mạch và sự xuất hiện của những rối loạn chuyển hóa. Như thế, những nhà du hành không gian sẽ bảo tồn không những sức để trồng pomme de terre trên sao Hỏa mà còn chống lại trọng lực lúc trở về Trái đất.
(LE FIGARO 11/4/2016)

4/ LÀM SAO TỰ SĂN SÓC TRONG TRẠM KHÔNG GIAN QUỐC TẾ (STATION SPATIALE INTERNATIONALE) ?
Điều gì xảy ra khi một phi hành gia bị đau trên Trạm không gian quốc tế (Station spatiale internationale) ? Anh ta có một kit médical chứa 190 loại thuốc khác nhau (được dán nhãn bằng tiếng Anh và Nga) và hộp đồ để thực hiện băng bó. Một “médecin de vol” trên Trái đất có thể được tiếp xúc 24 giờ/24, 7 ngày/7, để trực tiếp giúp chẩn đoán. Điều đó sẽ phức tạp hơn khi du hành lên sao Hỏa, vì thời gian giữa những liên lạc do khoảng cách (đến 30 phút). Các phi hành gia được đào tạo để sơ cứu. Ít nhất một phi hành gia đối với équipe 3 người được huấn luyện những thao tác phức tạp hơn, như tiêm tĩnh mạch hay nội thông khí quản, đặt một ống thông tiểu (điều đó đă xảy ra), nhổ một chiếc răng (!) hay lấy đi một vật lạ từ mắt. Trong trường hợp cấp cứu, luôn luôn có thể cho hồi hương phi hành gia qua một capsule Soyouz trong vài giờ. Điều đó chưa bao giờ xảy ra. Những trang bị phức tạp và thu nhỏ để chẩn đoán (loại IRM) hay phẫu thuật (tình trạng vô trọng lực là một vấn đề) đang được phát triển cho những cuộc du hành xa.
(LE FIGARO 11/4/2016)

5/ FOP (FORAMEN OVALE PERMÉABLE), MỘT BẤT THƯỜNG CỦA TIM CÓ THỂ DẪN ĐẾN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO.
GS Jean-Louis Mas, trưởng khoa thần kinh, bệnh viện Sainte-Anne, Paris, báo động rằng : Một tai biến mạch máu não trên bốn vẫn không được giải thích. Một sự thông thương giữa hai tâm nhĩ của tim có thể là nguyên nhân. Phải nghĩ đến điều đó.
Hỏi : Foramen ovale perméable (FOP) là gì ?GS Jean-Louis Mas : Đó là một sự thông thương giữa hai tâm nhĩ của thai nhi, cho phép cung cấp máu oxygéné từ người mẹ. Lỗ này đóng lại lúc sinh nhưng, một trường hợp trên bốn, nó tồn tại suốt đời, thường không có hậu quả. Tuy nhiên, đôi khi, nó là nguyên nhân của tai biến mạch máu não, nhất là ở những người trưởng thành từ 18 đến 60 tuổi, do “cục nghẽn mạch nghịch lý” (embole paradoxale), một cục máu đông được tạo thành trong hệ tĩnh mạch đi qua FOP của tâm nhĩ phải đến tâm nhĩ trái. Sau đó cục máu đông đến tâm thất trái, rồi tuần hoàn động mạch, nhất là não, ở đó nó tạo một chướng ngại.
Hỏi : FOP dự phần nào trong toàn bộ những nguyên nhân của AVC ?
GS Jean-Louis Mas : Ở Pháp khoảng 150.000 người là nạn nhân mỗi năm của một tai biến mạch máu não, nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở đất nước chúng ta, nguyên nhân thứ nhất gây phế tật vật lý và nguyên nhân thứ hai gây sa sút trí tuệ sau bệnh Alzheimer. Trong 20% những trường hợp, đó là một tai biến mạch máu não xuất huyết (AVC hémorragique) do vỡ một động mạch nằm trong não hay trong khoang màng não. Trong 80% những trường hợp, đó là một tai biến mạch máu não thiếu máu cục bộ (AVC ischémique) (nhồi máu não) do một động mạch bị gây tắc bởi một cục máu đông. Khoảng 15% trong số những trường hợp sau này được lên kết với một FOP ở những bệnh nhân dưới 60 tuổi (4000 trường hợp mỗi năm). Nguy cơ tái phát mặc dầu thấp, nhưng luôn luôn có thể, trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập niên.
Hỏi : Những dấu hiệu lâm sàng của một AVC do FOP ?
GS Jean-Louis Mas : Tùy theo vùng bị ảnh hưởng, đó sẽ là một yếu cơ hay một bại liệt và/hoặc một sự mất cảm giác của các chi, của mặt, thường của một bên thân mình, một sự mất thị giác của một mắt, một rối loạn ngôn ngữ…những dấu hiệu này có điểm chung là một sự xuất hiện đột ngột. Khi đó phải nhanh chóng gọi secours, số 15, mặc dầu những dấu hiệu thoái triển.
Hỏi : Làm sao xác lập chẩn đoán chắc chắn ?
GS Jean-Louis Mas : Chẩn đoán dựa trên siêu âm tim với tiêm tĩnh mạch những microbulle mà ta có thể thấy chúng đi từ tâm nhĩ này qua tâm nhĩ khác qua FOP. Siêu âm này có thể được thực hiện qua ngực (échographie transthoracique) (sonde được đặt trên ngực) hay qua thực quản (échographie transoesophagienne) (sonde được đưa xuống thực quản với gây tê tại chỗ), lại còn tốt hơn, loại bỏ một nguyên nhân tim khác và, nhất là, cho phép thấy một bombement của vách giữa các tâm nhĩ, phình mạch của vách liên nhĩ, một bất thường, khi liên kết với FOP, làm dễ sự xuất hiện của một AVC.
Hỏi : Điều trị là gì ?
GS Jean-Louis Mas : Nhiều công trình, trong đó công trình của Pháp Close năm 2017, đã cho thấy rằng sự đóng một FOP bằng một prothèse, thường nhất bằng élastomère, được đặt bằng đường nội huyết quản từ một tĩnh mạch đùi, dưới gây mê hay gây tê, cho phép làm giảm 2/3 nguy cơ tái phát tai biến mạch máu não, so với điều trị chuẩn dựa trên dùng thuốc aspirine. Những người từ 18 đến 60 tuổi có FOP lớn và/hay bombement du septum là những người hưởng nhiều nhất kỹ thuật này. Quyết định điều trị được thực hiện tùy theo từng trường hợp với sự nhất trí giữa thầy thuốc thần kinh và thầy thuốc chuyên khoa tim. Trên 3560 thủ thuật được thực hiện trong những thử nghiệm, một rối loạn nhịp (rung nhĩ), nói chung tạm thời, xuất hiện ở 5% những bệnh nhân. Những biến chứng khác tiềm năng nghiêm trọng vẫn hiếm và không một biến chứng nào chịu trách nhiệm một tử vong. Sự đóng của FOP đã được thực hiện ở 90% những bệnh nhân.

(PARIS MATCH 4/7-10/7/2019)

6/ PHÔI THAI CÓ THỂ TỰ SỬA CHỮA
Embryoscope là một incubateur được trang bị một máy caméra. Trong khung cảnh của một FIV, caméra này, sau khi tinh trùng đi vào trong noan và trong 5 hay 6 ngày, quay film liên tục sự phát triển của trứng thụ tinh cho đến khi nó được chuyển vào trong tử cung. Không những embryoscope đảm bảo những điều kiện phát triển lý tưởng, mà nó còn cho phép, nhờ những vidéo, phát hiện những phôi không thể sử dụng. Chuẩn là, từ tế bào nguyên thủy, có 4 tế bào ngày thứ hai và 8 ngày thứ ba. Những ở giai đoạn này, đôi khi, vài phôi đánh mất một tế bào và được coi là những ứng viên xấu để chuyển. Một công trình nghiên cứu của Viện Marquès, ở Barcelone, centre de reproduction assistée, đã nhìn những vidéo của 23.340 phôi thai, trong đó 303 đã loại bỏ một tế bào. Thế mà những phôi thai này đã không là nguyên nhân của một tỷ lệ sinh đẻ thấp. Giải thích : ngay ngày thứ hai của đời sống, phôi có khả năng tự sữa chữa và loại bỏ một tế bào có vấn đề. Chỉ có thể thôi !

Embryoscope


(PARIS MATCH 11/7-17/7/2019)

7/ LÀM CHA MUỘN : MỘT NGUY CƠ ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CỦA CÁC TRẺ EM ?
Đó là một câu hỏi mà ta hiếm khi tự đặt ra, trong khi tác dụng của tuổi người mẹ rất được khảo sát : thí dụ, ta biết rằng tuổi của người mẹ gia tăng nguy cơ trisomie ở các con mình. Nhưng một số ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu cho thấy rằng tuổi của người cha cũng đóng một vai trò, nhất là đối với sức khỏe tâm thần của con cái. Tuổi làm cha càng muộn, những nguy cơ autisme, rối loạn lưỡng cực hay tâm thần phân liệt càng cao. Thế mà danh sách không hoàn toàn…
Trường hợp tâm thần phân liệt, xảy ra ở khoảng 1 người trên 100 trên thế giới, là một trong những trường hợp được khảo sát nhất. Theo các nhà nghiên cứu, nguy cơ phát triển bệnh 3 lần quan trọng hơn đối với con cái của một người đàn ông 45 tuổi hoặc hơn so với con cái của một người cha dưới 24 tuổi. Thế mà những người trong lứa tuổi 30, chiếm đại đa số những người cha trẻ tuổi trong các nước phương tây, cũng bị liên hệ. Ở những người cha tuổi từ 30 đến 35, tuổi sinh sản (âge de procréation) ngay cả là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng phát triển một tâm thần phân liệt ở đứa con. Những công trình nghiên cứu mới đây cho thấy rằng trong 26 % các trường hợp (ngoại trừ những trường hợp có một bẩm chất gia đình), tuổi của người cha được xét đến.
Nguy cơ gia tăng liên kết với tuổi này có nguồn gốc trong những tế bào tổng hợp các tinh trùng. Khi những tế bào này đổi mới bằng phân chia tế bào, những biến dị có thể xuất hiện. Những bất thường, mặc dầu không hiện hữu trong génome của người cha, được truyền cho hậu duệ qua các tinh trùng. Theo dòng năm tháng và của những phân chia tế bào, những biến dị tích lũy. Vì thế, vào năm thứ 30, một người đàn ông truyền những biến dị 4 lần nhiều hơn so với một người đàn bà cùng tuổi ; ngay khi sinh người đàn bà này có dự trữ các noãn tương lai. Theo một công trình nghiên cứu Islande, được thực hiện năm 2012 trên 78 trios cha mẹ-đứa bé, tỷ lệ biến dị của người cha gia tăng 4,28% mỗi năm. Vì thế một người đàn ông 70 tuổi sẽ truyền những biến dị 80 lần nhiều hơn so với một người đàn ông 20 tuổi ! Trong khi phần lớn những biến dị được truyền không được nhận biết, vài biến dị có thể ảnh hưởng những gène thiết yếu và gây nên những bệnh lý tâm thần. Nhưng sự biến dị của một nhúm gène thôi không giải thích sự xuất hiện của những rối loạn tâm thần ở những đứa bé có cha già.
NHỮNG LỢI ÍCH SINH HỌC
Những yếu tố épigénétique cũng đóng vai trò. Liên quan trong sự sinh tinh trùng, những cơ chế này, điều hòa sự biểu hiện của các gène nhưng không làm thay đổi séquence d’ADN, bị biến đổi chức năng với tuổi già. Thế mà, dường như chúng được truyền cho hậu duệ. Tuy nhiên, gánh nặng của năm tháng chỉ là một trong những nguyên nhân của sự thoái hóa này : chứng nghiện thuốc lá và chứng béo phì cũng có một ảnh hưởng.
Nhưng chúng ta hãy an lòng : đại đa số những trẻ sinh ra từ một người cha già vẫn có sức khỏe hoàn hảo. Và không phải tất cả những giao tử của một người già là những trái bom nổ chậm ! Trái lại, chúng ngay cả mang lại cho hậu duệ một con chủ bài sinh học đáng kể : tuổi thọ (longévité). Thế mà đó là những yếu tố đặc biệt của ADN của chúng ta, những télomère, là chìa khóa của tuổi thọ. Những séquence nhỏ ADN này bảo vệ những đầu mút của mỗi nhiễm sắc thể và tránh cho những mảnh của génome khỏi bị cắt do sai lầm khi phân chia tế bào. Một vai trò quan trọng. Ngoại trừ với tuổi già, chúng rút ngắn lại. Những tế bào không còn có thể đảm bảo nữa sự phân chia của chúng một cách đúng đắn, điều này làm dễ sự xuất hiện những căn bệnh liên kết với tuổi già. Chỉ một loại tế bào thoát khỏi quy tắc này : những tế bào sản xuất các tinh trùng. Ở chúng, các télomère dài ra ngay cả với tuổi già và được truyền như thế cho hậu duệ. Như thế những đứa bé có cha già hơn lúc thụ thai thừa hưởng những télomère dài hơn trung bình. Dường như điều đó cho các tế bào một năng lực tăng sinh gia tăng và tăng cường hệ miễn dịch. Điều này cho phép gia tăng tuổi thọ. Những công trình được công bố năm 2012 cho thấy rằng những télomère dài hơn được thấy ở những người cháu của các những người cha có con muộn. Tuy nhiên, nếu toàn thể cộng đồng khoa học công nhận những tác dụng có hại liên kết với những télomère quá ngắn, mối liên hệ giữa những télomère dài và một tuổi thọ kéo dài vẫn chưa được xác lập.
Sau cùng, phải ghi nhớ rằng ngoài patrimoine génétique, một người cha cũng truyền sự giáo dục cho các con mình. Và lại nữa, tuổi có tầm quan trọng của nó. Một công trình nghiên cứu, được công bố cuối năm 2014 cho thấy rằng nguy cơ bị thương do tai nạn trong năm đối với một đứa bé của một người cha 20 tuổi 4% cao hơn đối với đứa bé của một người cha 50 tuổi. Một người cha già cũng sẽ có khuynh hướng sẵn sàng hơn cho các con mình, nhất là bởi vì sự nghiệp đã hoàn thành, Marc Bessin,, giám đốc của Institut de recherche interdisciplinaire sur les enjeux sociaux. Theo ông, cần tương đối hóa những công trình nghiên cứu di truyền.
(SCIENCE ET VIE 9, 10, 11/2018)

8/ INTERNET CÓ HẠI CHO NÃO BỘ CỦA CHÚNG TA KHÔNG ?Ngay khi web xuất hiện trong đời sống hàng ngày của chúng ta, câu hỏi về những tác dụng âm tính của nó lên năng lực nhận thức (faculté cognitive) của chúng ta đã được đặt ra. Và, rất nhanh, các công trình nghiên cứu đề xuất rằng công cụ này làm yếu trí nhớ và sự chú ý của chúng ta, làm giảm những trí năng của chúng ta hay làm dễ những rối loạn hành vi. Nhưng khoa học đã có thời gian nhìn lại và làm tinh tế những công trình. Từ nay, các nhà nghiên cứu không hài lòng tính chất quá đáng của những nỗi lo ngại này. Sau điều tra, thì ra ngay cả rằng, bởi vài khía cạnh, internet tỏ ra có lợi đối với não bộ của chúng ta !
Chúng ta lấy thí dụ trí nhớ. Một trong nỗi sợ mạnh nhất đối với internet là vì cứ mãi cậy vào internet để tìm những dữ kiện thay vì cố gắng ghi nhớ chúng, cuối cùng chúng ta nhớ ít thông tin hơn. Đó là điều mà người ta gọi là “l’effet Google”. Thế mà, surfer trên Net trên thực tế dường như gia tăng những hiệu năng của một thành phần của trí nhớ của chúng ta : mémoire de travail visuelle, cho phép tích trữ và thao tác những hình ảnh được cảm nhận trong thời gian ngắn hạn. Đối với một số ngày càng nhiều các nhà nghiên cứu, effet Google phải được tương đối hóa. Thật vậy có thể rằng ta đưa vào ít thông tin hơn một cách cố ý. Nhưng sự kiện ghi nhớ ít hơn một cách tự ý sẽ không làm biến mất năng lực này. Nhất là ta tiếp tục tích trữ thông tin một cách không tự ý. Thế mà, ít nhất 80% của điều nằm trong trí nhớ của chúng ta trong thời gian dài hạn (prénoms, dates anniversaires…) đã được tích trữ qua những apprentissage không cố ý này.
Đối với não bộ của chúng ta, cũng có một tác dụng có lợi đối với những tiết kiệm trên sự ghi nhớ này. Sự kiện dựa trên kỹ thuật học, với tư cách là nguồn trí nhớ bên ngoài (source de mémoire externe), giải phóng những khả năng nhận thức (ressources cognitives) bổ sung cho những thao tác ưu tiên khác, như sự suy nghĩ hay sự quyết định.
Có cái để tăng cường tất cả những năng lực nhận thức của chúng ta (capacités cognitives) ? Giả thuyết được củng cố bởi những quan sát được thực hiện trong trường hợp lão hóa nhận thức (viellissement cognitif). Ta biết rằng sự lão hóa này có thể được chống lại bởi những hoạt động trình độ cao, như sự lập luận, hay sự trao đổi, hay sự tiếp xúc với những nội dung văn hóa đa dạng và phong phú. Thế mà những tình huống này tiềm năng được làm dễ bởi internet và những mạng xã hội.
VƯỢT QUA NHỮNG ĐỊNH KIẾN
Một công trình nghiên cứu của Mỹ gợi ý rằng sự tìm kiếm trên Net (recherche en ligne) có thể làm giảm sự lão hóa nhận thức (vieillissemnt cognitif) ở những lão niên. Nhờ IRMf, các nhà tâm thần học đã quan sát não của 24 người trưởng thành tuổi từ 55 đến 78 được “connecté” ít hay nhiều, lúc thực hiện một trắc nghiệm tìm kiếm trên mạng. Những người ít được nối kết (peu connectés) có một hoạt động não tương tự với hoạt động được sinh ra khi đọc trên giấy. Những khách quen của Net cho thấy một sự gia tăng đáng kể của hoạt động trong những vùng phụ kiểm soát sự suy luận phức tạp, sự quyết định và thị giác. Từ đó có ý tưởng cho rằng Net sẽ giúp cải thiện những chức năng suy luận và quyết định ở các lão niên.
Những mạng xã hội cũng giúp đỡ những người trẻ tuổi. Những công trình, được thực hiện trên 100 sinh viên, gợi ý rằng trong thời gian ngắn hạn, các mạng xã hội có một tác dụng dương tính lên họ trong sự quyết định.
Sau cùng, theo một ý tưởng rất phổ biến, sự sử dụng Net quá mức (hyperconnexion) sẽ làm xói mòn những năng lực tập trung chú ý của chúng ta. Thế mà, mặc dầu quá trình sinh học của sự chú ý có những giới hạn, vài năng lực này có thể phần nào được vượt qua, và những năng lực chú ý của chúng ta được gia tăng qua những apprentissage. Như khi ta học lái xe : lúc đầu, ta cảnh giác vào mỗi lúc chuyển tốc độ ; rồi dần dần, những động tác được tự động hóa và ta thực hiện chúng mà không suy nghĩ. Trong trường hợp internet, có thể rằng chúng ta cũng có thể tự động hóa vài công việc sau khi thực hiện chúng nhiều lần ; điều này cho phép chúng ta huy động nhiều chú ý hơn đối với những hoạt động khác. Ngoài ra Internet có thể cải thiện tính uyển chuyển trong sự chú ý (flexibilité attentionnelle), một khuynh hướng cho phép chuyển từ một hoạt động này qua một hoạt động khác đồng thời vẫn tập trung.
Rất có thể rằng vì “switcher” thường xuyên khi navigation, chúng ta gia tăng, trong một chừng mực nào đó, tính hiệu quả của cơ chế này.
Thật vậy, ” chỉ có một sử dụng xấu internet và các mạng, nhất là sử dụng với liều cao, mới có thể đặt vấn đề “, BS tâm lý học Patrick Lemaire đã nói như vậy. Phải ngừng sợ với internet, bởi vì não bộ của chúng ta cuối cùng chờ đợi nhiều điều từ nó.
(SCIENCE ET VIE 9, 10, 11/2018)
Đọc thêm : TSYH số 324 : bài số 9

9/ CHÀM QUÁ MẪN (DERMATITE ATOPIQUE) : NHỮNG TIẾN BỘ ĐIỀU TRỊ
GS Julien Senescchal, trưởng đơn vị dermatologie inflammatoire ở bệnh viện Saint-André, Bordeaux, mô tả chàm quá mẫn (dermatite atopique) cũng như điều trị của bệnh ngoài da phổ biến, có thể gây phế tật này.
Hỏi : Làm sao định nghĩa bệnh này ?
GS Julien Senescchal : Chàm quá mẫn là một bệnh viêm da mãn tính, được làm dễ bởi một thể trạng dị ứng nhưng chính nó không phải là một bệnh dị ứng thật sự. Bệnh thường xuất hiện trước 2 tuổi và xảy ra ở 10 đến 15% những trẻ em. Trong phần lớn các trường hợp, bệnh cải thiện ở thời kỳ thiếu niên. Tuy nhiên, 10% tái kích hoạt bệnh ở tuổi trưởng thành, dưới dạng những đợt đoạn hồi hay liên tục. Nếu phần lớn các chàm quá mẫn là nhẹ và dễ kiểm soát, 20% trong số chúng, có biểu hiện nặng hơn, tác động lên cuộc sống hàng ngày.
Hỏi : Tầm quan trọng của bệnh này ở Pháp ?
GS Julien Senescchal : 2,5 triệu người, và 60% phụ nữ, bị liên hệ. Sau psoriasis, đó là bệnh ngoài da thường gặp thứ hai. Những yếu tố nguy cơ có thể là di truyền hay liên kết với những thay đổi thời tiết (thí dụ lạnh), stress và thuốc lá.
Hỏi : Ta có biết những cơ chế gây bệnh không ?
GS Julien Senescchal : Đó cũng là một bệnh do nhiều yếu tố (maladie multifactorielle), làm khô da, làm da dễ thẩm thấu hơn, do đó dễ bị thương tổn hơn. Ngoài ra, có một hoạt động bất thường của hệ miễn dịch (phòng vệ của cơ thể), phản ứng một cách quá mức đối với vài tác nhân nhiễm trùng vi khuẩn hay virus, với những dị ứng nguyên hay với vài điều kiện môi trường.
Hỏi : Những đặc điểm của nó là gì ?
GS Julien Senescchal : Đó là những mảng đỏ mà dấu hiệu chính là ngứa, làm trầm trọng tình trạng của lớp da phủ.
Ở trẻ em, má là định vị thông thường. Về sau, các nếp gấp của cùi chõ và gối là bị nhiều nhất.Vì gãi hoài, da dày lên một cách xấu xí và tạo thành những vảy da. Những thương tổn này biến đổi hình ảnh cá nhân và sự tự tin : stress và/hay trầm cảm là thường gặp. Sự gãi, đôi khi dữ dội, làm rối loạn giấc ngủ và năng suất lúc làm việc. Có thể được thêm vào những dấu hiệu này là những bệnh dị ứng (hen phế quản, viêm mũi, viêm kết mạc). Da của bệnh nhân thường bị xâm thực hay có nguy cơ mắc phải những nhiễm trùng virus (herpès) hay vi khuẩn (liên cầu khuẩn hay tụ cầu khuẩn vàng). Những nhiễm trùng khác hiếm hơn.
Hỏi : Những giai đoạn và những dạng khác nhau được điều trị như thế nào ?
GS Julien Senescchal : Điều trị cơ bản mỗi ngày là dùng crème hydratante. Chúng tạo một màng bảo vệ làm da kín hơn và làm giảm sự mất nước từ biểu bì. Trong trường hợp cơn cấp tính, một dermocorticoide phải được đặt trên thương tổn một lần mỗi ngày cho đến khi bình thường hóa thương tổn. Trái với sự sử dụng corticoides bằng đường miệng trong thời gian dài, sự đắp tại chỗ này không phải là không nguy hiểm. Tuy nhiên, vì chàm quá mẫn là một bệnh mãn tính, nó cần một điều trị duy trì bởi dermocorticoide hay bởi pommade immunosuppressive tacrolimus (Protopic pommade), nhất là trên mặt và cổ. Trong trường hợp thất bại (những thể nặng), sự cho bằng đường miệng những thuốc làm suy giảm miễn dịch, như cyclosporine hay méthotrexate, có thể có lợi. Những tác dụng không mong muốn của chúng lên huyết áp, mệt, chức năng thận hay gan được theo dõi. Nếu vẫn thất bại, một thuốc mới, dupilumab (kháng thể đơn dòng được tiêm dưới da mỗi 15 ngày), tác dụng lên những chất trung gian của viêm, hiệu quả ở 70% những bệnh nhân (ít viêm hơn, giấc ngủ được cải thiện…), nhất là nếu nó được liên kết với một dermocorticoide.
(PARIS MATCH 11/7-17/7/2019)

10/ ĐIỀU TRỊ MỚI CHỐNG TRẦM CẢM HẬU SẢN
Một điều trị mới chống trầm cảm hậu sản (dépression post-partum), ảnh hưởng 10 đến 15% những người mẹ, vừa được FDA chấp thuận. Được tiêm truyền ở bệnh viện, brexanolone tác động chỉ trong hai ngày, so với nhiều tuần đối với những điều trị chống trầm cảm thông thường. Đó là thuốc đầu tiên có chỉ định ở dạng trầm cảm đặc biệt này, mà những nguyên nhân vẫn còn chưa được biết rõ bởi những thầy thuốc tâm thần, và có thể có những hậu quả nghiêm trọng đối với người mẹ và em bé.
” Bệnh trầm cảm hậu sản không được lầm với baby blues, xảy ra 2-5 ngày sau khi sinh và không kéo dài hơn 10 ngày “, BS Florence Gressier, trưởng đơn vị bà mẹ-trẻ em ở bệnh viện Kremlin-Bicêtre, đã nhấn mạnh như vậy. Như những dạng trầm cảm khác, bệnh được biểu hiện bởi một sự buồn bã dài lâu hay một sự thiếu thèm muốn, nhưng nó cũng có những triệu chứng đặc thù nhằm vào em bé : một mặc cảm tội lỗi, lo âu hay khó khăn trong việc chăm lo.
” Chúng có thể bị các thầy thuốc tầm thường hóa, thầy thuốc tâm thần định rõ như vậy. Được xem như là hạnh phúc, nhưng thật ra họ cảm thấy khó diễn tả những tình cảm đi xuyên qua họ : xấu hổ, giận dữ, thiếu khả năng, tiếc rẻ.” Trong tất cả các trường hợp, sự khó ở này có thể dẫn đến tự tử.
PHÁT HIỆN NHỮNG PHỤ NỮ CÓ NGUY CƠ KHI KHÁM TIỀN SINH
Một thuốc chống trầm cảm có thể cần thiết, trong những thể trung bình đến nặng. Những điều trị đầu tiên dựa trên một tâm lý liệu pháp được tập trung vào mối quan hệ mẹ-em bé và những thăm khám ở nhà. BS Florence Gressier cũng chỉ tầm quan trọng của sự phát hiện những phụ nữ có nguy cơ lúc khám tiền sinh sớm, rồi của sự theo dõi họ. Những tiền sử trầm cảm, nhất là trong khi có thai, phải báo động những thầy thuốc và những nữ hộ sinh.
Ở Hoa Kỳ, brexanolone (được thương mãi hóa dưới tên Zulresso) sẽ được truyền tĩnh mạch trong 60 giờ dưới sự theo dõi y khoa, vì một nguy cơ bị ngất đi được quan sát trong vài trường hợp trong những thử nghiệm lâm sàng. Điều trị sẽ được đề nghị với một phí tổn 34.000 dollars, theo New York Times.
(LE FIGARO 25/3/2019)
Đọc thêm : TSYH số 499 : bài số 6

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(12/8/2019)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

2 Responses to Thời sự y học số 514 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 616 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 628 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s