Thời sự y học số 508 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ ĐIỀU TRỊ GIÃN TĨNH MẠCH MỘT CÁCH CÓ Ý THỨC, KHÔNG CẤP CỨU.
18 triệu người Pháp bị những vấn đề tuần hoàn tĩnh mạch, 10 triệu có những giãn tĩnh mạch (varices)
Ta có nhiều kỹ thuật để loại bỏ những suy tĩnh mạch nông không đẹp.VASCULARISATION. ” Sự nghiên cứu về mạng động mạch (réseau artériel) là đặc biệt phong phú, nhưng ta còn thiếu nhiều công trình về phần tĩnh mạch của tuần hoàn máu “, GS Patrick Lermusiaux, trưởng khoa ngoại mạch máu và nội mạch (chirurgie vasculaire et endovasculaire) của CHU de Lyon, đã lấy làm tiếc như vậy. Những dữ kiện dịch tễ học mới nhất bat dau có từ năm 1996 : 12 triệu người bị những vấn đề tuần hoàn tĩnh mạch, trong đó 10 triệu bị những giãn tĩnh mạch (varices).
Tuy nhiên một tỷ lệ luu hành như thế không lạ lùng cũng không đáng lo ngại : sự thiếu khả năng của mạng tĩnh mạch là một hậu quả bình thường vì con người là động vật hai chân, mà những cẳng chân nằm dưới tim. Bước, và nếu không; những tất dài bất động (bas de contention), là những điều trị hiệu quả nhất đối với suy tĩnh mạch sâu (insuffisance veineuse profonde). Trong những mạng nông, suy tĩnh mạch có thể được phát hiện bởi những giãn tĩnh mạch (varices) : những tĩnh mạch bị giãn có thể thấy dưới da. Trong đa số các trường hợp, không triệu chứng và không nguy hiểm, tuy nhiên những giãn tĩnh mạch gây nên một sự khó chịu thẩm mỹ thật sự : thị trường quan trọng này đã tạo điều kiện cho sự hiệu chính những kỹ thuật mới dần dần lấn bước ngoại khoa.
” Phần lớn các bệnh nhân đến khám vì những lý do thẩm mỹ, mặc dầu họ không dám nói điều đó, GS Guillaume Mahé, trưởng unité de médecine vasculaire, angiologie et phlébologie của CHU de Rennes, đã nhấn mạnh như vậy. Thường nhất đó là những phụ nữ, trong 3 trường hợp trên 4.” Trong tất cả các trường hợp, không đáng lo ngại vì mạng nông chiếm dưới 10% mạng tĩnh mạch. Triệu chứng duy nhất cần một can thiệp nhanh là sự tạo thành những vết loét lành sẹo khó, có thể biến đổi chất lượng sống và gây nên những phí tổn y tế cao.
Ngay cả mac dau không triệu chứng (đau, ngứa và biến đổi dạng vẻ của da), thầy thuốc phải thực hiện một bilan của tuần hoàn tĩnh mạch trong các cẳng chân với một échographie doppler, trước khi xét đến một điều trị. Nếu thăm dò phát hiện sự hiện diện của hồi lưu (reflux) hay sự nghẽn trong các tĩnh mạch, một can thiệp là hữu ích để phòng ngừa nguy cơ tạo thành những cục máu đông hay sự biến đổi của da. Ngay khi vấn đề chỉ là thẩm mỹ, sự chờ đợi đôi khi hữu ích, nhất là ở những phụ nữ trẻ muốn có con. ” Những giãn tĩnh mạch có thể trở nặng trong thai nghén, nhưng, nếu ta điều trị quá sớm, những giãn tĩnh mạch xuất hiện trong thai nghén sau thường sẽ khuếch tán hơn, khó điều trị hơn “, GS Lermusiaux đã chỉ rõ như vậy.
Mục tiêu của điều trị là tránh sự hồi lưu (reflux) hay tình trạng tù hãm của máu trong những tĩnh mạch nông bằng phương tiện đơn giản nhất : loại bỏ những tĩnh mạch bị giãn vì lẽ chúng chỉ đóng một vai trò thứ yếu trong tuần hoàn tĩnh mạch. Chính kích thước của các tĩnh mạch và hình thái của chúng xác định sự lựa chọn điều trị tùy theo cartographie được xác lập lúc làm écho doppler, phải được thực hiện ở tư thế đứng. Từ nay những kỹ thuật nội tĩnh mạch (techniques endoveineuses) được khuyến nghị bởi Bộ y tế, nhằm bít một cách vĩnh viễn từ bên trong những tĩnh mạch, hoặc bằng cách tiêm một chất làm xơ hóa (produit sclérosant), hoặc bằng cách đốt bằng laser hay radiofréquence.Phương pháp ngoại khoa nhằm lấy đi những tĩnh mạch bị giãn bằng một hay hai đường xẻ kín đáo. Tất cả được thực hiện ngoại trú với những kết quả tương đương : lợi ích của mỗi phương pháp được tính theo phí tổn đối với tập thể. Như vậy, phương pháp ngoại khoa, ít tốn kém về mặt dụng cụ và ít được ủng hộ bởi các labo, còn dẫn đến một sự cho nghỉ việc trung bình 26 ngày. Trái lại, những kỹ thuật nội tĩnh mạch (techniques endoveineuses) là tốn kém hơn nhưng nói chung cho phép một sự trở lại làm việc rất nhanh.
Dầu kỹ thuật là gì, điều trị của các giãn tĩnh mạch chỉ được bồi hoàn đối với những tĩnh mạch có đường kính lớn hơn, điều này có khuynh hướng tạo điều kiện cho những can thiệp sớm hơn lên những giãn tĩnh mạch này. ” Chú ý đừng hy sinh chúng quá nhanh, GS Mahé đã cảnh báo như vậy. Đó là con đường cứu tốt nhất cho một pontage nếu xảy ra. ” Thật vậy, tình trạng nhàn rổi không hoạt động và chứng béo phì tạo điều kiện cho những giãn tĩnh mạch, nhưng chúng cũng là những yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh động mạch : do đó những chuyên gia khuyến nghị kiểm tra mọi thương tổn động mạch hay mọi nguy cơ trước khi can thiệp lên những tĩnh mạch hiển (veine saphène).
Sự xuất hiện của những kỹ thuật mới luôn luôn mang lại một arsenal d’intervention rộng rãi hơn, thuận lợi cho một y khoa hiệu quả hơn, nhưng trong lãnh vực tĩnh mạch, còn có quá ít những công trình nghiên cứu và quá ít thời gian nhìn lại, điều này tạo điều kiện cho những “mode” trong điều trị. Vậy có thể rằng trong thời gian những khuyến nghị còn thay đổi để nhận diện một cách rõ ràng hơn vị trí của mỗi phương pháp, thậm chí sự cần thiết can thiệp.
(LE FIGARO 29/4/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 370 : bài số 10
– TSYH so 198 : bài số 1

2/ GIÃN TĨNH MẠCH : VỀ CÁCH SỬ DỤNG TỐT SỰ NÉN ÉP
” Ngoài bước, sự nén ép (compression) là vũ khí hiệu quả nhất đứng trước suy tĩnh mạch, với điều kiện được thực hiện và sử dụng tốt “, GS Joel Constants, trưởng khoa nội và y khoa mạch máu của CHU de Bordeaux đã nhấn mạnh như vậy. Một nửa dân số cảm thấy những tác dụng của suy tĩnh mạch, hậu quả của sự lão hóa của các tĩnh mạch, của tư thế đứng kéo dài của vài nghề nghiệp, của một tăng thể trọng bụng (surpoids abdominal) hay một sự thiếu hoạt động vật lý đều đặn. Những phụ nữ thường bị hơn đàn ông, nhất là trong thời kỳ thai nghén vì các oestrogène làm giãn tĩnh mạch.
Nếu các giãn tĩnh mạch xấu, đó chính là trong hệ tĩnh mạch sâu (đảm bảo phần lớn hồi lưu tĩnh mạch) mà những vấn đề nghiêm trọng nhất có thể nảy sinh. Echographie doppler, được thực hiện một cách hệ thống ở tư thế đứng, là thiết yếu để nhận diện những vùng, ở đó, trong những tĩnh mạch sâu, máu ứ đọng và/hoặc tạo thành một cục máu đông bít tuần hoàn và có thể được dẫn đến tận phổi với một nguy cơ nghẽn tắc động mạch phổi.
Máu được làm phong phú oxygène bởi phổi được đẩy đến mọi xó xỉnh của cơ thể nhờ sức mạnh của bơm tim và của các động mạch cơ thể co hay giãn. Hệ tĩnh mạch sử dụng những hệ khác : sự co của các cơ của cơ thể, vào mỗi cử động, đè lên các tĩnh mạch và đẩy máu về phía phổi. Trong những cẳng chân, nằm xa hơn, các van chống hồi lưu cho phép chống lại trọng lực có khuynh hướng làm cho máu chảy lùi về phía dưới. Ở đó chân và bắp chân là bơm có hiệu quả nhất : lòng của bàn chân bị bẹp trong khi bước đuổi máu của các tĩnh mạch nằm ở đó về phía những cơ mạnh của bắp chân, khi đó tiếp sức.
TRÁNH TĂNG THỂ TRỌNG
Vậy phải duy trì vốn tĩnh mạch của mình bằng cách giữ một musculature tonique trong cẳng chân và bằng cách tránh sự tăng thể trọng : bước và bơi lội có thể được thực hành ở mọi lứa tuổi. Khi điều đó không đủ, sự ép bằng những tất ngắn (chaussettes), tất dài (bas) hay collants de contention cho phép thay thế sức ép được gây nên bởi các cơ lên các tĩnh mạch. ” Một cách nghịch lý, thường nhất các tất dài bị dung nạp kém bởi vì chúng không bó đủ chặt, GS Constans đã nhấn mạnh như vậy. Chúng không ngăn cản sự tạo phù và nhanh chóng trở nên không thoải mái.”
Vì tư thế nằm cho phép giảm thiểu sự tạo phù, nên các tất dài, ít nhất loại 3, phải được đặt ngay khi thức dậy, khi các cẳng chân không bị sưng phồng. Nếu chung được bó chặt tốt, chúng ngăn cản các tĩnh mạch giãn và sự tạo phù ” Cũng phải thay đổi chúng thường xuyên bởi vì chúng mất tính hiệu quả sau khoảng 3 tháng “, GS Guillaume Mahé, trưởng unité de médecine vasculaire ở CHU de Rennes đã nói thêm như vậy.
(LE FIGARO 29/4/2019)

3/ LOÉT TĨNH MẠCH : HÃY CAN THIỆP NHANH !
” Những loét giãn tĩnh mạch (ulcères variqueux) xảy ra ở 3 đến 5% những người bị suy tĩnh mạch. Chúng là hậu quả nghiêm trọng nhất của suy tĩnh mạch “, GS Joel Constans, trưởng khoa médecine interne et vasculaire ở CHU de Bordeaux đã giải thích như vậy. Phù mãn tính liên kết với suy tĩnh mạch có thể dẫn đến hoại tử da, với những vết thương hóa sẹo rất kém. ” Chúng là một cái giá to lớn phải trả về phí tổn y tế cũng như về sự biến đổi lên sự thoải mái đối với bệnh nhân, với một nguy cơ quan trọng bị những biến chứng và những tái phát.
Vậy những dấu hiệu biến đổi da là những triệu chứng đầu tiên mà thầy thuốc và bệnh nhân phải chú ý để can thiệp rất nhanh. Suy tĩnh mạch mãn tính được kèm theo một sự biến đổi sâu của thành tĩnh mạch, trở nên mảnh và có nhiều lỗ hơn. Khi đó dịch tích tụ trong các mô bao quanh những tĩnh mạch này, đầy những phân tử không được chuyển hóa tốt, làm dễ sự phá hủy những tế bào của biểu bì.” Phải theo dõi tiến triển của suy tĩnh mạch thành loét, nhất là sự hiện diện của một dermite ocre ở phần dưới của bắp chân”, GS Marie-Antoinette Sevestre, trưởng khoa médecine vasculaire của CHU Amiens-Picardie đã chỉ rõ như vậy. Thật vậy, hiện tượng này chủ yếu xảy ra trên các mắt cá chân, điểm thấp nhất của cẳng chân và vùng ở đó những tĩnh mạch gần biểu bì nhất, trên mắt cá trong.
ĐIỀU TRỊ NGUYÊN NHÂN
” Dấu hiệu đầu tiên hết, dễ bỏ sót, thường là ngứa hay một eczéma ở mắt cá chân và chỉ xảy ra trên cẳng chân có những giãn tĩnh mạch “, GS Patrick Lermusiaux, trưởng khoa ngoại mạch máu và nội mạch của CHU de Lyon, cũng đã chỉ như vậy. Da ngứa, đổi màu, dày lên và cứng như carton và, dưới tác dụng của gãi hay của hoại tử của các mô, những vết thương hở được tạo thành.
Trái với những loét động mạch (ulcère artériel), những loét tĩnh mạch, ít đau, nên thường được điều trị muộn, khi đó cần những săn sóc hàng ngày cho một sự hóa sẹo cần nhiều tuần. Điều trị cố gắng điều trị tại chỗ vết thương bằng cách ngăn cản phù bằng một sự ép thường trực lên các cẳng chân, nhờ những bande variqueuse. Điều trị nguyên nhân, suy tĩnh mạch, là thiết yếu cho sự chữa lành, nhưng cũng để tránh những tái phát, thường xảy ra, và những biến chứng.
(LE FIGARO 29/4/2019)

4/ SYNDROME POST-THROMBOTIQUE : THÀNH CÔNG CỦA STENTING VEINEUX
GS Marc Sapoval, trưởng khoa radiologie interventionnelle vasculaire et oncologique, Bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, Paris, giải thích những tiến bộ đã được thực hiện trong điều trị những di chứng tĩnh mạch sau viêm tĩnh mạch sâu (phlébites profondes)
Hỏi : Một syndrome post-thrombotique (SPT) là gì ?
GS Marc Sapoval : Đó là một tắc tĩnh mạch mãn tính (occlusion veineuse chronique), chỉ ở một phía, do những thương tổn tồn đọng được tạo bởi một huyết khối tĩnh mạch cấp tính (thrombose veineuse aigue) (viêm tĩnh mạch), đã xảy ra ở những tĩnh mạch lớn của chậu (những tĩnh mạch chậu) và những tĩnh mạch sâu của những chi dưới. Sự thực hiện sớm một điều trị kháng đông cho phép làm tan những cục máu đông gây chướng ngại và tránh một trong những cục máu đông này là nguyên nhân của một nghẽn tắc động mạch phổi.Mặc dầu vậy, viêm tĩnh mạch có thể để lại những di chứng (thí dụ xơ hóa tại chỗ, phá hủy các valvule) làm chậm lại tuần hoàn tĩnh mạch hay ngay cả làm ngừng hoàn toàn, gây nên một SPT. Từ lâu người ta đã nghĩ rằng mọi khả năng phục hồi là ảo tưởng. Không phải như vậy. 1. Những động lực của hồi lưu tĩnh mạch về tim là khá mạnh để giải quyết một thiếu sót như vậy, miễn là sự tắc của tĩnh mạch chậu bị thương tổn được hủy bỏ. 2. Khi tắc được lấy đi, ta đồng thời lấy đi, bằng một tác dụng tháo sạch (effet de vidange), sự ứ đọng tĩnh mạch ở các chi dưới, dẫn đến một sự chữa lành không di chứng. Stenting là kỹ thuật lựa chọn để đạt đến điều đó.
Hỏi : Hội chứng này có thường gặp không ?
GS Marc Sapoval : Ta thống kê mỗi năm ở Pháp 70.000 viêm tĩnh mạch sâu, đối với 250.000 viêm tĩnh mạch nông (viêm của những tĩnh mạch dưới da). Những viêm tĩnh mạch sâu là nguồn của 40.000 nghẽn tắc động mạch phổi : 20 đến 50% những người liên hệ giữ những di chứng tĩnh mạch ở những mức độ khác nhau. Thường đó là những phụ nữ, đôi khi là những nạn nhân của một tái phát của viêm tĩnh mạch hay những người bị điều trị muộn vì một huyết khối tĩnh mạch cấp tính (thrombose veineuse).
Hỏi : Những triệu chứng của hội chứng sau huyết khối là gì ?
GS Marc Sapoval : Một sự bất đối xứng về đường kính của các chi dưới, một cẳng chân nặng và/hoặc đau lúc gắng sức (bước, thể thao), đôi khi những varices và những troubles trophiques (hypodermite, loét). Cộng những dấu hiệu này cho một score de sévérité. Một siêu âm của các tĩnh mạch của bụng và của những chỉ dưới thường để xác lập bilan.
Hỏi : Những phương tiện điều trị ?
GS Marc Sapoval : contention élastique mạnh (30-40 mmHg) nhờ những tất ngắn, bas hay collants trong ít nhất 2 năm (đôi khi suốt đời), có hay không có những thuốc chống đông, từ lâu đã là điều trị duy nhất. Ngoại khoa (thí dụ pontage) là không hiệu quả. Sự đặt một hay nhiều stent kim loại (ressorts) trong những tĩnh mạch chậu bị tắc, để giữ cho chúng mở (và sau khi giãn những tĩnh mạch này bằng một ballonnet), đã cách mạng hóa thái độ điều trị của hội chứng sau huyết khối. Can thiệp kéo dài hai giờ dưới gây mê tổng quát. Nhập viện trong 48 giờ. Sự thất bại của khai tắc hiếm khi xảy ra. Biến chứng chính, trong 5 đến 10% những trường hợp, là một huyết khối mới, xảy ra sớm hay muộn (trên 3 tháng), mặc dầu cho tức thời những thuốc kháng đông và chống ngưng kết tiểu cầu trong ít nhất 6 tháng. Khi đó một thủ thuật thứ hai được xét đến.
Hỏi : Với những kết quả nào ?
GS Marc Sapoval : tỷ lệ thành công tức thời 95% : chi xẹp sưng, đau biến mất và bước trở lại bình thường.
Hỏi : Thông điệp của ông là gì ?
GS Marc Sapoval : Stenting veineux là một bước tiến quan trọng trong điều trị hội chứng sau huyết khối. Hội chứng này từ lâu vẫn không có giải pháp điều trị thỏa mãn. Kỹ thuật này phải được báo cho biết những bệnh nhân bị hội chứng sau huyết khối, đại chúng và chính y sĩ đoàn, bởi vì nó vẫn là, ngoài vài centre de référence, rất ít được sử dụng.
(PARIS MATCH 23/5-28/9/2019)

5/ UNG THƯ TỤY TẠNG TĂNG MẠNH
Trong vòng 20 năm, số những trường hợp ung thư tụy tạng ở Pháp đã nhảy vọt từ 6000 lên 14.000 trường hợp mỗi năm. Theo GS Vinciane Rebours (bệnh viện Beaujon, Clichy), những thức ăn công nghiệp và những thuốc trừ sâu có thể là những yếu tố nguy cơ làm gia trọng.
(PARIS MATCH 9/5-15/5/2019)

6/ UNG THƯ PHỔI : TÌNH HÌNH MỚI
Theo GS Thierry Le Chevalier, Institut d’oncologie thoracique, bệnh viện Marie-Lannelongue, và bệnh viện Gustave-Roussy, Villejuif, đó là ung thư giết người nhất, liên kết chẩn đoán sớm và những trị liệu mớiHỏi : Những loại ung thư phổi là gì ?
GS Thierry Le Chevalier : Có 49.000 trường hợp mới mỗi năm ở Pháp và đó là nguyên nhân đứng đầu gây tử vong do ung thư trên thế giới (1,6 triệu người chết mỗi năm). Chúng xảy ra ở đàn ông hai lần nhiều hơn ở đàn bà nhưng tiến triển nhiều ở các phụ nữ. 85% những trường hợp là những ung thư phế quản được gọi là ” non à petites cellules ” (CNPC), nhất là những adénocarcinome, những épidermoides cũng vậy, và 15% là những ung thư được gọi là ” à petites cellules “. Những loại ung thư khác hiếm hơn.
Hỏi : Những nguyên nhân và những dấu hiệu phát hiện là gì ?
GS Thierry Le Chevalier : Thuốc lá là nguyên nhân đầu tiên hết. Hơn 8 bệnh nhân trên 10 là những người hút thuốc hay những người đã từng hút thuốc. Những dấu hiệu phát hiện có thể là ho dai dẳng, khó thở, đau ngực, sự hiện diện của máu trong đờm, nhiễm trùng phổi, mất cân. Kiểm tra X quang là một trường hợp khám phá thường gặp.Hỏi : Bilan gồm những gì ?
GS Thierry Le Chevalier : 1. Scannet ngực. 2. Sinh thiết khối u bằng fibroscopie khí quản, chọc dò xuyên qua ngực hay écho-endoscopie (xuyên qua một khí quản về phía một hạch). Phân tích bằng kính hiển vi xác nhận ung thư và loại. 3. IRM não và Pet Scan tìm kiếm những di căn. 4. Một analyse immunohistochimique và một profil moléculaire des gènes de la tumeur định rõ những đặc điểm của nó có cho phép sử dụng một thérapie ciblée hay một immunothérapie. 5. Trong vài trường hợp, một biopsie liquide cho phép phân tích phân tử của ADN, hay những tế bào ung thư lưu thông trong máu, bổ sung bilan..Hỏi : Những phương tiện điều trị ?
GS Thierry Le Chevalier : 1. Đối với CNPC (cancer non à petites cellules), những giai đoạn 1 và 2 tập hợp những u nhỏ có thể mổ được, thường nhất được rút ra bằng vidéothoracoscopie. Một hóa trị và/hay xạ trị được thêm vào hay không.
Khi bệnh nhân không thể mổ được do tuổi tác, do tình trạng tổng quát hay hô hấp, ta điều trị khối u chỉ bằng xạ trị, đôi khi rất nhắm đích (stéréotaxie, CyberKnife), hiếm hơn bằng siêu âm (radiofréquence).(Radiothérapie du cancer du poumon)
Những giai đoạn 3 khu trú ở ngực, nhưng lớn hơn và/hay lan đến hạch về phía khoang giữa hai lá phổi (trung thất), điều này làm bàn đến một ngoại khoa nặng nề hơn hay một xạ-hóa trị (radiochimiothérapie). Những giai đoạn 4 tương ứng với những ung thư di căn. Tùy theo loại ung thư, điều trị dựa trên hóa trị, những điều trị nhắm đích và hoặc miễn dịch liệu pháp. 2. Những ung thư tế bào nhỏ (cancers à petites cellules) thuộc về hóa trị, liên kết hay không với một xạ trị ngực và xạ trị não phòng ngừa.
Hỏi : Những kết quả là gì ?
GS Thierry Le Chevalier : Những người được mổ là những ứng viên tốt nhất của sự chữa lành. Những người khác hưởng được những tiến bộ liên kết với những liệu pháp nhắm đích (thérapie ciblé) và với miễn dịch liệu pháp, những điều trị này đã gia tăng nhiều hy vọng sống của các bệnh nhân (5 năm và nhiều hơn) với sự kiểm soát bệnh hoàn toàn. Nếu tỷ lệ tử vong của ung thư này vẫn tăng cao, đó là vì một chẩn đoán thường quá muộn
Hỏi : Thông điệp của ông ?
GS Thierry Le Chevalier : Cách tránh tốt nhất để chống lại ung thư phổi là cai thuốc lá. Đừng bắt đầu hút hay ngừng càng nhanh càng tốt. Sự phát hiện cá nhân bằng scanner, từ tuổi 50, đã chứng minh lợi ích của nó. Tốt nhất là thực hiện nó trong một circuit organisé bởi vì những dương tính giả thường gặp và, trong trường hợp thực hiện bilan, hướng bệnh nhân đến một trung tâm chuyên khoa cho một điều trị tối ưu.
(PARIS MATCH 2/5-8/2/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 497 : bài số 4 (dépistage par scanner)
– TSYH số 486 : bài số 5 (dépistage par scanner)
– TSYH số 396 : bài số 9 (thérapeutique)

7/ UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN : PREDICT GIÚP QUYẾT ĐỊNH
Mỗi năm trên thế giới, 1 triệu người đàn ông biết rằng họ bị một ung thư của tuyến tiền liệt, 80% định vị ở tuyến và không có di căn. Điều trị có thể triệt để (cắt bỏ tuyến tiền liệt, xạ trị với những tác dụng phụ) hay bảo thủ (theo dõi). Chiến lược thay đổi từ nước này đến nước khác, thậm chí từ urologue này đến urologue khác, và vài bệnh nhân không được điều trị đủ, những bệnh nhân khác bị điều trị thái quá. Thế thì chọn gì ? Các nhà nghiên cứu của Cambridge, Vương quốc Anh, đã phát triển một công cụ được gọi là Predict. Từ những tiêu chuẩn khác nhau (tuổi tác, chất chỉ dấu PSA, giai đoạn, mô học của những tế bào ác tính, score d’agressivité..), Predict thông báo cho bệnh nhân về tiên lượng lúc 10-15 năm và đưa ra một lựa chọn : điều trị triệt căn hay theo dõi “có vũ trang” (surveillance armée). Tính thích đáng của Predict và phương pháp của nó đã được xác nhận ở hơn 10.000 người Anh được theo dõi trong 10 năm và hơn 69.000 người Thụy Điển được theo dõi trong 15 năm.
(PARIS MATCH 2/5-8/5/2019)

8/ TUYẾN TIỀN LIỆT : CÀ PHÊ CHỐNG UNG THƯ
Các nhà nghien cứu Nhật bản đã nhận diện trong arabica hai thành phần cho phép café phong bế sự tăng sinh của ung thư tiền liệt tuyến : cafestol và acétate de kahwéol. Tác dụng của chúng cộng lực và chúng ức chế sự di tản của những tế bào ung thư và làm giảm hoạt tính của chúng bằng những androgènes.
(PARIS MATCH 23/5-28/5/2019)

9/ GLAUCOME : MỘT BỆNH THẦM LẶNG
Glaucome, thường gặp, là một nguyên nhân gây mù lòa. Sự phát hiện sớm và sự theo dõi nó là thiết yếu. GS Isabelle Cocherau giải thích.
GS Isabelle Cocherau, trưởng khoa mắt, filière glaucome, Fondation Adolphe de Rothschild, Paris.Hỏi : Glaucome là gì ?
GS Isabelle Cocherau : Đó là một bệnh làm hỏng dần dần dây thần kinh thị giác. Bệnh thường được liên kết với nhãn áp quá cao do sự kém bài xuất của thể dịch và/hay thương tổn huyết quản.Thể dịch (humeur aqueuse) được tiết bởi thể mi (corps ciliaire) ở sau mống mắt (iris). Sau đó, thể dịch chảy quanh phần trước của mắt nằm trước thủy tinh thể, được bài xuất ở góc được tạo nên bởi mống mắt và giác mạc xuyên qua một filtre được gọi là “trabéculum”, rồi được thải qua một canal de Schlemm. Mọi chướng ngại trên circuit này, nhất là ở góc mống mắt-giác mạc (angle iris-cornée), gia tăng nhãn áp do sự tích tụ của thủy dịch. Có hai dạng lớn : glaucome góc mở (thường gặp nhất) trong đó trabéculum đã trở nên ít thông thương và glaucome góc kín do gia tăng thể tích của thủy tinh thể liên kết với tuổi tác.
Hỏi : Phải chăng đó là một bệnh thường gặp.
GS Isabelle Cocherau : Ở Pháp, 1,2 triệu người bị glaucome, trong đó một nửa không biết mình bị bệnh. Những tiền sử glaucome trong gia đình, xơ vữa động mạch, một thể địa co thắt mạch máu (spasme vasculaire) (migraine, hội chứng Raynaud) là những yếu tố nguy cơ.
Hỏi : Những dấu hiệu là gì ?
GS Isabelle Cocherau : Bệnh nói chung im lặng, do đó tính nguy hiểm của nó. Khi có một sự thu hẹp của thị trường (bệnh nhân như thấy trong một tuyau, không mất thị lực), thì đã quá muộn, sự mất không thể đảo ngược được ! Chỉ có glaucome à angle aigu, hiếm hơn và là cấp cứu y khoa, được biểu hiện bởi đau dữ dội, đau đầu, nôn…
Hỏi : Bilan gồm gì ?
GS Isabelle Cocherau : Đo nhãn áp (bình thường dưới 21 mmHg), cần được giải thích theo bề dày của giác mạc. Khám hệ thống góc mống mắt-giác mạc (angle irido-cornéen). Sự mất những sợi thần kinh của đầu của dây thần kinh thị giác được đánh giá bởi soi đáy mắt (fond d’oeil) và bởi coupes en tomographie par cohérence optique, cũng như bởi sự biến đổi của thị trường.Bilan này là cơ sở của một sự theo dõi đều đặn tiến triển, trung bình mỗi 6 tháng, được làm dễ bởi những logiciel so sánh những dữ kiện từ thăm khám này qua thăm khám khác.
Hỏi : Những điều trị là gì ?
GS Isabelle Cocherau : Những điều trị nhằm làm hạ nhãn áp. Một điều trị suốt đời bằng thuốc giọt thường đủ : hoặc là nó làm dễ sự bài xuất của thể dịch (HA), hoặc nó làm giảm sự sản xuất ra nó, hoặc cả hai. Nếu tỷ suất tính hiệu quả/tính dung nạp không tốt, ta có thể thay đổi collyre hay phối hợp chúng. Những thuốc không có chất bảo quản (conservateur) thường được ưa thích hơn bởi vì chúng ít kích thích đối với bề mặt mắt. Những động tác phụ khác nhau, có tác dụng lâu bền ít hay nhiều, đôi khi cần thiết. En consultation : laser cho phep làm thông thương trabéculum trở lại khi góc mở (glaucome à angle ouvert) hay làm một micro-trou évacuateur trong mống mắt trong trường hợp góc đóng (glaucome à angle fermé). En chirurgie : dẫn lưu thể dịch bằng cắt bỏ hoàn toàn hay một phần trabéculum và canal của nó, là phẫu thuật được thực hiện nhiều nhất.Tối thiểu (à minima) hay trong trường hợp phẫu thuật cataracte, những microstent évacuateur d’ humeur aqueuse có thể được đưa vào. Trong trường hợp góc đóng, sự rút cataracte ra sẽ được thực hiện sớm.Trong những thể đề kháng, sự phá hủy những thể mi sản xuất thể dịch bằng laser là một giải pháp. Nhìn chung, phần lớn nhưng glaucome có thể được làm ổn định
Hỏi : Thông điệp của bà là gì ?
GS Isabelle Cocherau : Glaucome phải được phát hiện bởi khám nhãn khoa bởi vì nó không cho một dấu hiệu báo động nào trước giai đoạn tiến triển và rằng những tổn hại là không thể đảo ngược được. Điều trị nhằm ổn định hay làm chậm lại sự thoái biến của dây thần kinh thị giác. Điều trị phải được thích ứng trong suốt cuộc đời nhờ một sự theo dõi đều đặn bởi thầy thuốc nhãn khoa.
(PARIS MATCH 9/5-15/5/2019)
Đọc thêm :
– TSYH số 503
– TSYH số 448 : bài số 9, 10
– TSYH số 361 : bài số 3, 4, 5
– TSYH số 342 : bài số 7

10/ OMS : MỘT KẾ HOẠCH CHO THỂ DỤC
Tổ chức y tế thế giới đã phát động cho 2018-2030 một kế hoạch hành động thế giới chống tình trạng nhàn rổi không hoạt động (sédentarité), yếu tố tử vong quan trọng sau thuốc lá và rượu. Ở châu Âu, 1/3 những người trưởng thành và 3/4 những trẻ em không hoạt động đủ. Nhắc lại về mức tối thiểu được khuyến nghị ngay tuổi 18 : 150 phút mỗi tuần hoạt động dai sức (activité d’endurance) cường độ vừa phải (bước nhanh…) hay ít nhất 75 phút hoạt động dai sức cường độ duy trì (jogging…). Ở những người từ 5 đến 17 tuổi : ít nhất 60 phút mỗi ngày hoạt động vật lý cường độ trung bình đến duy trì. Tăng gấp đôi những thời gian này càng có lợi hơn.
(PARIS MATCH 26/7-1/8/2018)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(20/6/2019)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

4 Responses to Thời sự y học số 508 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 523 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 602 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  3. Pingback: Thời sự y học số 607 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  4. Pingback: Thời sự y học số 613 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s