Thời sự y học số 485 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ BỆNH TỰ KỶ : HÃY CHO CON MÌNH NHỮNG CƠ MAY
Những “trouble du spectre de l’autisme” (TSA) liên quan khoảng 1% dân số, với một con gái đối với bốn con trai.CERVEAU. Giữa trắng và đen, có một bảng màu vô tận của các màu xám. Cũng vậy đối với bệnh tự kỷ (autisme), nó che dấu những thực tế rất khác nhau, từ đứa trẻ với những rối loạn quan trọng của sự phát triển, của hành vi và một thiếu sót trí tuệ quan trọng, đến chàng thanh niên Asperger, mà parcours đôi khi xuất sắc nhưng giữ một tiếp xúc với những người khác hơi không điển hình. Do là ly do tai sao thuật ngữ ” trouble du spectre de l’autisme” (TSA) (những rối loạn của phổ của bệnh tự kỷ) thay thế thuật ngữ autisme. Những rối loạn xảy ra ở khoảng 1% dân số, hoặc khoảng 600.000 người ở Pháp. Với một con gái đối với 4 con trai.
Cha mẹ đôi khi có những mối lo âu rất sớm. ” Vào khoảng 1 tuổi, ta có thể xem một đứa trẻ có theo một quỹ đạo phát triển chuẩn (trajectoire développementale standard) hay không, nó có nhìn rõ hay mất tiếp xúc bằng mắt với những người thân, nó có xoay mình lại khi người ta gọi tên nó không, …”, GS Frédérique Bonnet-Brillant, pédopsychiatre (CHU Tours) đã giải thích như vậy. ” Profil fonctionnel của đứa bé sẽ được thăm dò bằng cách quan sát một cách có cấu trúc hành vi của nó, nhờ những thang điểm, những trắc nghiệm..Như thế, dựa trên những tiêu chuẩn có thể quan sát, ta đánh giá profil ngôn ngữ, nhận thức (cognitif) của nó, những năng lực xã hội-cảm xúc (compétences socio-émotionnelles) của nó…” nhưng đứa bé càng trẻ, vài dấu hiệu càng ít đặc hiệu hơn. Vậy chẩn đoán TSA hiếm khi được gợi ra trước 18-24 tháng. ” Ngay khi ta phát hiện một quỹ đạo tách ra khỏi điều bình thường, ta có thể can thiệp, làm cho nhạy cảm, đào tạo cho bố mẹ những dạng thức đồng bộ hóa xã hội-cảm xúc (synchronisation socio-émotionnelle) với em bé của mình, giải thích cho họ làm sao họ có thể “bám lấy” (accrocher) quan hệ với nó “, pédopsychiatre đã giải thích như vậy.
Chẩn đoán này, đòi hỏi một giám định nhiều chuyên khoa, là thuần lâm sàng, dựa trên sự quan sát. 2/3 của những trường hợp TSA có đồng thời một thiếu sót của những tương tác xã hội (déficit des interactions sociales), những động tác lập lại (stéréotypies) và những hứng thú bị thu hẹp, bị tập trung (intérêts restreints, autocentrés). Trong 1/3 TSA cũng hiện diện một thiếu sót trí tuệ (déficit intellectuel), đôi khi những rối loạn ngôn ngữ hay những rối loạn vận động có mức độ nghiêm trọng thay đổi, một động kinh, một tăng hoạt động (hyperactivité) (TDHA), một sự tăng thính lực (hyperacousie), những rối loạn giấc ngủ…Đồng thời hay lùi về trước, như trầm cảm, lo âu, thường gặp ở người thiếu niên với TSA. ” Có khi chúng tôi nhận những người trưởng thành được gởi đến vì trầm cảm đề kháng (dépression résistante), trong khi TSA của họ, không bao giờ được chẩn đoán, đã làm phức tạp tất cả parcours de vie của họ.”
Thành phần di truyền của bệnh tự kỷ được ước tính ít nhất 80%. Nhưng đó là một di truyền phức tạp, nhiều gène (multigénétique). Ta biết hàng ngàn đột biến chung của các gène mà mỗi đột biến mang lại một nguy cơ rất nhỏ, và hơn 100 đột biến cho nguy cơ cao hơn đối với TSA. Vài đột biến được tìm thấy trong những bệnh lý khác (động kinh, tâm thần phân liệt,…) làm giả định rằng có một sự trùng lập một phần. Đó là “paysage génétique”, kết quả của sự cộng lại và của những tương tác của tất cả những gène này, với nhau và với môi trường, điều này cuối cùng sẽ quyết định sự xuất hiện hay không của một TSA. Sử dụng các thuốc động kinh trong thời kỳ thai nghén là một yếu tố nguy cơ được xác nhận, cũng như một thai nhi quá lớn hay quá nhỏ, tình trạng sinh non, sự không dùng folate vào tam cá nguyệt thứ nhất.Trong hơn 25% TSA với thiếu sót trí tuệ, ở đứa trẻ sự biến dị của một gène duy nhất cũng đủ. Những biến dị này xảy ra chủ yếu ở những gène có liên quan trong những khớp thần kinh (synapse : những chỗ nối giữa các neurone mà qua đó chúng liên lạc), hay trong remodelage của nhiễm sắc chất (chromatine) liên kết với hoạt động của neurone. ” Hai đường này hội tụ về plasticité synaptique, cần thiết cho sự thiết đặt và sự hoạt động tốt của các interconnexion cérébrale “, GS Thomas Bourgeon, neurogénéticien (Viện Pasteur) đã giải thích như vậy. Kíp của ông đã khám phá nhiều trong số những gène này, trong đó Shank 3 liên kết với một bệnh tự kỷ hiếm, averbal.” Nhưng ngay cả với gène này, không có gì là chắc chắn. Một người mẹ mà tôi đã khám đứa bé đã gọi tôi để nói với tôi rằng người ta đã tìm thấy ở nó biến dị Shank 3. Thế mà bệnh tự kỷ của nó không có vẻ nặng lắm đối với tôi. Người mẹ đã giải thích với tôi rằng bà rất sớm đã làm tất cả để kích thích con mình, Hôm nay nó nói và đi học. Lithium cũng làm giảm bớt mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng liên kết với sự biến dị này.
Ta biết rất ít về tiến triển của TSA.” Một công trình nghiên cứu của Hoa Kỳ đã theo dõi từ 3 đến 13 năm những trẻ tự kỷ. Trong 10 năm, 10% của những trẻ này, rất nặng lúc 3 tuổi, đã cải thiện nhiều để trở về “chuẩn” (norme) 10 năm sau với những triệu chứng tự kỷ tối thiểu. Nếu ta nhận diện những yếu tố của sự cải thiện này, ta sẽ đạt được những tiến bộ đáng kể trong sự thông hiểu bệnh tự kỷ “, GS Richard Delorme, pédopsychiatre (bệnh viện Robert Debré, Paris) đã giải thích như vậy. ” Ta càng xử trí sớm những triệu chứng này, ta càng có ít những tác dụng âm tính liên kết với sự xuất hiện của những rối loạn này.”
(LE FIGARO 8/10/2018)
Đọc thêm : Thời Sự Y Học số 437

2/ QUÁ CHỜ ĐỢI ĐỂ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ
Sự điều trị một đứa bé với TSA phải bắt đầu ngay khi chẩn đoán được xác lập. Trên thực tế, thời hạn chờ đợi trung bình là 12 tháng, mặc dầu ta có đi nhanh hơn đối với những trẻ rất nhỏ. Sự điều trị này, toàn bộ, hướng về 3 thành phần của bệnh tự kỷ : sự giao tiếp (communication), những khía cạnh xã hội và những những động tác lập lại (stéréotypies), và nhằm vào những bất thường của các chức năng nhận thức (fonctions cognitives), của sự chú ý, của vận động, mà ta cũng phải tính đến.Trong số những méthode cognito-comportementale đã được thử thách là thérapie d’échange et de développement (TED). ” Người điều trị (thérapeute) phải biết một cách hoàn hảo những chức năng giao tiếp xã hội (communication sociale) theo nghĩa thần kinh-sinh lý là gì. Trong một gian phòng hoàn toàn trống, khi đó người điều trị có khả năng giao thiệp với đứa trẻ tự kỷ và qua sự giao thiệp này, phát khởi ở nó một vui thích chia sẻ đối với sự giao thiệp này, khiến đứa trẻ nhìn, mỉm cười, tương tác “, GS Bonnet-Brilhault đã giải thích như vậy.” Những động cơ này chỉ xuất hiện nếu người điều trị trong một tình trạng hoàn toàn sẵn sàng cho sự giao thiệp này, cho sự lắng nghe dấu hiệu khởi xướng của đứa bé. Bằng một sự trả lời với dấu hiệu nhỏ này, nó sẽ phát khởi, tìm thấy lại điều mà ta gọi là sự “tò mò sinh lý ” (curisosité physiologique), luôn luôn hiện diện ngay cả ở đứa trẻ tự kỷ.
TED chỉ tìm kiếm sự vui thích từ sự giao thiệp, chứ hoàn toàn không sự học tập (apprentissage). Liệu pháp trao đổi và phát triển này là tối ưu vào khoảng lúc 2 tuổi, khi tính dẻo của não bộ (plasticité) đạt đến tối đa. Nhưng ngay cả ở đứa trẻ lớn tuổi hơn, thậm chí người trưởng thành, khi những lệch lạc chức năng rõ rệt hơn, liệu phải tiếp tục cho tiếp cận tính hiếu kỳ sinh lý này và có thể cải thiện sự giao tiếp xã hội. Đối với GS Catherine Barthelemy, pédopsychiatre (Tours), ” liệu pháp này dựa trên sự thông hiểu thần kinh chức năng của não xã hội (cerveau social) của đứa bé. Thế mà trong TSA, đứa trẻ đã không thiết lập mạng cần thiết này để giải mã và truyền thông tin đi và đến từ trẻ khác.
TED không có mục đích biến đổi hành vi của đứa bé, mà cho đứa bé một lợi chức năng (gain fonctionnel) để nó có thể đi vào trong một tương tác đồng bộ hóa, thành công, với trẻ khác.
MỘT SỰ ĐÀO TẠO TỐT CHO CHA MẸ
Những phương pháp khác bổ sung hơn là cạnh tranh. Phương pháp Teach được hướng định để đạt được sự tự trị của đứa trẻ, ở trường, tại nhà nó…bằng sự tổ chức, sự cấu trúc hóa môi trường của nó, thời biểu của nó. Bởi vì đứa bé này cần một sự tiên đoán rất lớn của tất cả những gì xảy ra cho nó. Phương pháp ABA dựa trên sự biến đổi của những hành vi, để gia tăng những hành vi thích ứng và giảm bớt những hành vi không thích ứng.
Có nhiều phương pháp khác, với những mục tiêu hay những công cụ đặc hiệu hơn…Nhưng một sự đào tạo tốt cho cha mẹ những kỹ thuật này cũng cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả tối ưu của chúng.
(LE FIGARO 8/10/2018)

3/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH TỰ KỶ1. Bẩm chất (prédisposition) : Nhiều trăm gène có liên hệ, vulnérabilité génétique đóng một vai trò quan trọng.
2. Tai nạn (accident) : những kim loại độc hay những hợp chất hữu cơ ảnh hưởng đứa bé trong tử cung hay sau khi sinh.
3. Sự nặng thêm (aggravation) : Bị suy yếu, có thể bị phó mặc cho sự xâm thực vi khuẩn, virus, nấm hay ký sinh trùng.
4. Những tổn hại (dommages) : vừa cấu trúc (trên sự phát triển não) và chức năng (những rối loạn chuyển hóa)
5. Những biểu hiện (manifestations) : những rối loạn của tương tác xã hội, của sự giao tiếp, và những hành vi lặp đi lặp lại (comportements stéréotypés).
(LE FIGARO 8/10/2018)

4/ BỆNH TỰ KỶ : ” ĐÓ LÀ MỘT BỆNH LÝ RẤT KHÔNG ĐỒNG NHẤT “
Marion Leboyer, giám đốc của Fondation FondaMental, trưởng khoa tâm thần học và addictologie ở bệnh viện Henri-Mondor (Créteil)
Hỏi : Việc nghiên cứu đã đi đến đâu rồi ?
Marion Leboyer : Sự nghiên cứu tập trung vào hai hướng : những công cụ chẩn đoán (outil diagnostique), cho phép một cách lý tưởng sử dụng những marqueur để nhận diện những dạng lâm sàng thuần nhất và có thể tiên đoán một cách chính xác hơn những đáp ứng điều trị. Sau đó, nhiều hy vọng điều trị, dầu đó là thuốc, như những thuốc hướng thần (psychotrope) đối với những rối loạn hành vi, những thuốc chống động kinh, mélatonine đối với những rối loạn giấc ngủ, những kháng sinh hay những complément alimentaire để tái lập một microbiote lành mạnh…
Hỏi : Hướng khuẩn chí ruột (flore intestinale) có hứa hẹn không ?
Marion Leboyer : Thật vậy, Giữa 40 và 70% các bệnh nhân tự kỷ bị những rối loạn dạ dày-ruột mà ta nghĩ có thể cải thiện bằng cách điều chỉnh microbiote. Ở nhiều bệnh nhân, ta quan sát một viêm thành tiêu hóa, điều này gây nên một sự thẩm thấu gia tăng của hàng rào ruột (barrière intestinale). Kết quả : những protéine thoát vào trong tuần hoàn máu làm phát khởi một phản ứng miễn dịch và tự miễn dịch. Vài công trình được thực hiện bởi Fondation FondaMental đang được tiến hành để thăm dò những hướng nghiên cứu rất đáng quan tâm này.
Hỏi : Di truyền hay môi trường, những nguyên nhân của bệnh tự kỷ là gì ?
Marion Leboyer : Gần 700 gène hiện hữu nhưng không một gène nào có thể giải thích hoàn toàn căn bệnh này. Những rối loạn này rõ ràng là do sự tương tác của những yếu tố di truyền và những yếu tố nguy cơ môi trường. Những nghiên cứu về những yếu tố môi trường này mới đây hơn và dường như liên quân sự sử dụng vài loại thuốc hay sự xuất hiện của những nhiễm trùng thai nghén, hay tác động của những facteur toxique. Ta ước tính rằng hôm nay nó xảy ra cho 600.000 người, hoặc 1% dân số. Nhung trong khi nó chỉ ảnh hưởng một đứa bé trên 3000 cách nay một nửa thế kỷ, ta ước tính rằng hôm nay một trên 70 trong những nước công nghiệp.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2018)

5/ 4 HƯỚNG ĐỂ CHỮA LÀNH BỆNH TỰ KỶ
Từ một chục năm nay, paysage thrapeutique chung quanh trouble du spectre autistique (TSA) đã thay đổi triệt để. Đến độ từ một hội chứng không thể chữa lành, ta đã chuyển qua một tập hợp những triệu chứng có thể được chẩn đoán và điều trị nhằm làm thuyên giảm và, tại sao không, chữa lành những người bị hội chứng này. Sau đây là 4 hướng điều trị chính.
1. MICROBIOTE LÀM THUYÊN GIẢM NÃO
Và nếu như, để săn sóc não của các bệnh nhân tự kỷ (autiste), ta bắt đầu bằng săn sóc bụng của ho ? Điều đó dường như trái với trực giác. Tuy vậy, hơn một nửa các bệnh nhân tự kỷ bị những triệu chứng dạ dày ruột. Với một cộng đồng vi khuẩn phong phú với 100.000 tỷ vi khuẩn, ống tiêu hóa của chúng ta là một cơ quan thật sự, mà sự mất cân bằng có thể có những tác dụng nguy kịch và quan trọng lên não và sự phát triển của nó. Càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh rằng điều chỉnh khuẩn chí ruột (flore intestinale) cho phép không những cải thiện triệu chứng tiêu hóa mà còn làm giảm những triệu chứng tự kỷ và nhất là những rối loạn của hành vi như tính dễ cáu, sự âu lo hay những động tác lập lại (stéréotypies : sự lặp lại không mục đích những từ hay động tác). Một trong những công trình mới nhất thuộc loại này đã được tiến hành năm 2017 bởi các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ của đại học của Arizona trên 20 trẻ em tự kỷ, và thực hiện một ghép phân (transplantation fécale). Mục tiêu : biến đổi những khuẩn chí ruột suy yếu. Tất cả các trẻ tự kỷ đã thấy những vấn đề ruột của chúng (ỉa chảy, khó tiêu, đau bụng) giảm khoảng 80% và hội chứng tự kỷ của chúng cũng đã thu giảm 1/4. Ở Pháp, một công trình nghiên cứu được tiến hành bởi Joel Doré, giám đốc nghiên cứu ở Inra và Marion Leboyer (Groupe hospitalier Henri Mondo) theo dự kiến được bắt đầu trong năm nay. Dự án Microbiote nhằm khảo sát microbiote của 150 người trưởng thành bị bệnh tự kỷ Asperger và so sánh nó với microbiote của những người lành mạnh. Bởi vì, nếu chứng minh được rằng microbiote ảnh hưởng lên não bộ của chúng ta, vấn đề còn lại là phải đánh giá ở mức độ nào.
2. NHỮNG KHÁNG SINH NHẮM ĐÍCH
Một huong điều trị khác nổi rõ, khá gần với hướng điều trị trước : làm giảm bớt vài bệnh nhân tự kỷ, nhất là khi bị ngộ độc bởi các độc tố. Có thể đó là những phân tử được tiết ra bởi những nanobactérie nội bào, như Borrelia được truyền bởi tique.Hay được phát xuất từ những chất gây ô nhiễm môi trường như những thuốc trừ sâu, những kim loại nặng…Hay do những bất dung nạp thức ăn, với gluten hay với caséine.
” Bệnh tự kỷ được phát khởi bởi vì lúc đầu có một thể địa di truyền thuận lợi và bởi vì một tai biến độc chất hay miễn dịch làm suy yếu cơ thể, Bertrand Jacques, chủ tịch của Fondation Autisme đã giải thích như vậy. Điều này gây nên sự xâm thực cơ thể bởi những ký chủ không được mong muốn, những ký sinh trùng, nấm. Và bởi vì cơ thể suy yếu, những xâm thực này gia tăng trong một nửa các trường hợp.” Khi đó điều trị nhằm tấn công nhắm đích bằng những kháng sinh. Vài thầy thuốc, như BS Philippe Raymond, thuộc nhóm công tác Chronimed, quy tụ khoảng 15 thầy thuốc thực hành, công bố những kết quả gây kinh ngạc : ” Chúng tôi có 12 năm nhìn lại và 3000 đứa trẻ được điều trị. Trên 80% trong số những đứa trẻ này, ta chứng thực một sự cải thiện của các triệu chứng.” Hiện nay, không có một công trình nghiên cứu khoa học nào xác minh những kết quả này. Nhưng điều đó có thể thay đổi với sự phát động trong năm này một công trình nghiên cứu lâm sàng Pháp-Úc, đề nghị điều trị những trẻ tự kỷ bằng 6 tháng kháng sinh liên tục. ” Bất hạnh thay, Bertrand Jacques nói, thử nghiệm này sẽ không hoàn toàn vì lẽ chúng tôi chỉ được tài trợ đối với những bệnh nhân Asperger trưởng thành. Điều đó biểu hiện một sự thiếu can đảm chính trị nào đó. Thật đáng tiếc, bởi vì ta biết rằng tính hiệu quả điều trị sẽ thấp hơn nếu công trình này được tiến hành trên những đứa bé.” Dầu thế nào đi nữa, Danièle Langloys, chủ tịch của Autisme France, cảnh giác : ” Chú ý đừng mang lại những hy vọng hảo cho cha mẹ háo hức những giải pháp để điều trị các con mình. Hướng nhiễm trùng là đáng lưu ý nhưng nên cẩn trọng, đặc biệt về việc kê đơn các kháng sinh.
3. THUỐC LỢI TIẾU : TÁC ĐỘNG LÊN CÁC NEURONE
Tác dụng trực tiếp lên các neurone, đó là một hy vọng mới. Trong trường hợp này, đó là nhờ đến một thuốc lợi tiểu, bumétanide, làm biến thiên những luồng chlore quá cảnh trong não và toàn cơ thể của chúng ta. Phải chăng nó có thể là một điều trị đối với những trẻ bị tự kỷ ? Đó là hy vọng đặt vào bumétanide, được nghiên cứu bởi GS Yehezkel Ben-Ari (Inserm, đại học Aix-Marseille) và BS Eric Lemonier (CHU de Limoges), liên kết trong biotech marseillaise Neurochlore. Cơ quan này đã ký kết một thỏa thuận với laboratoire Servier để phát triển một thử nghiệm trên 400 trẻ em và thương mãi hóa, trong 3 năm nữa, một dạng galénique mới của loại thuốc này, được sử dụng từ nhiều năm nay để điều trị suy tim. Một điều trị đặc hiệu chống lại bệnh tự kỷ. Đó là một première ! ” Lý thuyết của chúng tôi là, Eric Lemonnier đã giải thích như vậy, thuốc này sẽ cho phép các trẻ tự kỷ giải quyết một cách đúng đắn lượng thông tin mà chúng nhận được nhưng không xử lý chúng một cách đúng đắn, do một loạn năng liên kết với chlore.”
Vấn đề, vì bumétanide là một thuốc lợi tiếu, nên cần phải đánh giá những tác dụng của nó trong thời gian dài hạn, và với những liều nào, trên đứa trẻ. Ưu tư khác đối với Bertrand Jacques, ” thuốc này chỉ điều trị những triệu chứng, chứ không điều trị những nguyên nhân của bệnh tự kỷ “. Sau cùng, Danièle Langloys vẫn hoài nghi, đánh giá ” những tác dụng của nó là hạn chế, xét vì những kết quả đầu tiên. Điều đó đòi hỏi xác nhận “.
4. HY VỌNG KÍCH THÍCH NÃOVà nếu điều trị không phải là thuốc mà là một dòng điện liên tục ? Vừa được khởi động ở châu Âu (Đức, Pháp và Bồ đào nha) và trong 5 năm, một dự án được mệnh danh là Stiped, nhằm điều trị những rối loạn tự kỷ của đứa bé bằng những kích thích nhẹ qua sọ. Ở Pháp, dự án này được đảm nhận bởi CHỦ đề Tours và GS Frédérique Bonnet-Brilhault.” Trên lý thuyết, nếu anh có một loạn năng trong mạng neurone của anh, sự kích hoạt của vài vùng sẽ cho phép tác động lên tính dẻo của não để tái kích hoạt những mạng neurone bị loạn năng.” Nguyên tắc là như sau : bệnh nhân chịu những công việc đòi hỏi sự khéo léo và cognition sociale (thí dụ những trắc nghiệm về trí nhớ hay hay sự chú ý), trong khi não được kích thích nhờ một mũ mang những điện cực. Tất cả diễn ra ở nhà và một service de téléassistance cho phép kiểm soát từ xa những tham số kích thích và những kết quả của chúng.
Thiết bị này cho phép sánh kịp, thậm chí cải thiện những kết quả rất tốt hiện có được trong đơn vị của Frédérique Bonnet-Brilhault ở CHU de Tours. ” Nhờ những can thiệp sớm lên ngôn ngữ và những tương tác xã hội, 20% các trẻ được chẩn đoán bệnh tự kỷ. Điều này to lớn so với điều ta có được trước đây ! “.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2018)

6/ DƯƠNG VẬT : VẤN ĐỀ KÍCH THƯỚC
Khoảng một người đàn ông trên hai (45%) cho rằng dương vật của mình nhỏ. Thường nhầm bởi vì một sự đo lường không đúng đắn khi nhìn nó từ trên cao. Và một người bụng phệ khuếch đại hiệu quả này. Những đo lường mới đây trên dương vật của vài nghìn đàn ông, từ những lục địa khác nhau, trong 16 công trình nghiên cứu có chất lượng, được công bố trong những tạp chí nổi tiếng, chỉ rằng chiều dài trung bình của một dương vật biến thiên từ 7 đến 10 cm lúc nghỉ ngơi và từ 12 đến 16 cm lúc cương, và viên chu trung bình của nó là 9 đến 10 cm lúc nghỉ ngơi và 12 cm lúc cương. Những người đàn ông có dương vật nhỏ (dưới 4 cm lúc nghỉ ngơi và 7,5 cm lúc cương) là rất thiểu số. 9 phụ nữ trên 10 đánh giá rằng chất lượng của những giao hợp tùy thuộc vào viên chu (circonférence) của một dương vật hơn là chiều dài của nó.
(PARIS MATCH 20-26/9/2018)

7/ ANDROCUR BỊ LÊN ÁN
Dẫn xuất này của progestérone chủ yếu đuoc kê đơn cho phụ nữ trong trường hợp bị chứng rậm lông (hirsutisme), đôi khi mụn hay endométriose. Theo một công trình nghiên cứu của Agence du médicament trên 250.000 phụ nữ, thuốc này nhân nguy cơ xuất hiện một méningiome (u não hiền tính thường cần phải mổ) lên 7 lần ở những phụ nữ đã dùng nó hơn 6 tháng và 20 lần đối với những phụ nữ đã sử dụng nó hơn 5 năm.
(PARIS MATCH 27/9-3/10/2018)

8/ PHẢI CHĂNG NHỮNG CHẤT TĂNG DỤC CÓ MỘT TÍNH HIỆU QUẢ THẬT SỰ ?
Gừng (gingembre), quả lựu (grenade), các con hàu (huitre)…vô số những sản phẩm cho phép kích thích sự ham muốn nhục dục khiến ta tin rằng đó là điều có thể. Nhưng ở đây cần phân biệt hai điều : một mặt, sự ham muốn (désir) ; mặt khác, bộ máy (mécanique) của nó. Thế mà, về sự ham muốn nói riêng, không có bằng cớ khoa học nói rằng những chất này làm gia tăng sự ham muốn. Không một hiệu quả nào đã từng được chứng minh, như người ta yêu cầu điều đó đối với bất cứ loại thuốc nào. Vả lại, loại “thuốc tăng dục” (aphrodisiaque) không hiện hữu ngay cả trong những tác phẩm dược. Vậy, trong trường hợp tốt nhất, hiệu quả của chúng lên libibo là hiệu quả của placebo.
Tuy nhiên ta không thể chối cãi rằng vài trong số những chất này đúng là có năng lực làm giãn những huyết quản của các thể hang (corps caverneux) của những cơ quan sinh dục, thậm chí gia tăng sự sản xuất của các tinh trùng hay những nồng độ testostérone. Vâng, mặc dầu chúng có một tác dụng lên cơ thể, nhưng đó không phải là những thuốc tăng dục (aphrodisiaque). Ngoài ra, sự nổi tiếng của những sản phẩm như gừng, nghệ (safran), lựu (grenade) hay hàu dựa vào tác dụng trực tiếp lên bộ máy sinh dục (mécanique sexuelle). Theo một công trình nghiên cứu được công bố bởi những nhà nghiên cứu Anh, lựu (grenade) làm gia tăng 24% nồng độ của testostérone, kích thích tố được tiết chủ yếu ở đàn ông bởi tinh hoàn, nhưng cũng ở phụ nữ bởi các buồng trứng. Về gừng và nghệ, các nhà nghiên cứu của đại học Guelph, ở Canada, đã cho thấy rằng chúng làm dễ sự chảy dồn máu và, do đó, sự cương của dương vật và âm vật, nhờ tính chất giãn mạch của chúng. Sau cùng, các con hàu, rất giàu kẽm, một oligo-élément cần thiết cho sự sinh tinh trùng, góp phần vào quá trình sản xuất các tinh trùng.
Cũng như Viagra, những sản phẩm có tiếng tăng dục này có thể có một hiệu quả thật sự để gia tăng những hiệu năng sinh dục…nhưng đừng lẫn lộn với sự ham muốn nhục dục (désir)
(SCIENCE & VIE. QUESTIONS-REPONSES. TRIMESTRE MARS-AVRIL-MAI 2018)

9/ KHÔ ÂM ĐẠO : ĐIỀU TRỊ NÀO ?
BS Michel Mouly, chirurgien, gynécologue, oncologue ở Paris, giải thích rằng chứng khô âm đạo liên kết với điều trị chống ung thư hay với thời kỳ mãn kinh, là thường xảy ra. Hôm nay có thể điều trị chứng bệnh này.
Hỏi : Những dấu hiệu của một khô âm đạo (sécheresse vaginale)
BS Michel Mouly : Là triệu chứng chính của hội chứng niệu-sinh dục (SGU : syndrome génito-urinaire), khô âm đạo (sécheresse vaginale) gây nên một sự kích thích của âm đạo và/hoặc âm hộ, loại rát, ngứa, rối loạn tiểu tiện, những huyết trắng bất thường với mùi hôi. Những rối loạn này tác động lên đời sống thầm kín của người phụ nữ, những giao hợp và sự thèm muốn ; chúng được trải nghiệm như một sự lão hóa.
Hỏi : Chứng khô âm đạo có thường gặp không ?
BS Michel Mouly : Hơn 40% phụ nữ bị chứng khô âm đạo. Chỉ 25% yêu cầu được giúp đỡ, bởi vì viec gợi lên những rối loạn này vẫn là điều cấm kỵ.
Hỏi : Những nguyên nhân là gì ?
BS Michel Mouly : Dầu đó là một thời kỳ mãn kinh tự nhiên hay được gây nên bởi sự cắt bỏ các buồng trứng hay điều trị chống ung thư làm biến đổi chức năng buồng trứng, nguyên nhân đầu tiên là sự biến mất của các oestrogène. Điều này gây nên một sự sụt giảm glycogène, loại đường cho phép sự hiện hữu của lactobacille, một vi khuẩn có tác dụng quân bình và axit hóa âm đạo. Khi âm đạo trở nên kiềm, lactobacille biến mất. Những anti-oestrogène được cho để điều trị một ung thư phụ thuộc kích thích tố (cancer hormono-dépendant) làm trầm trong tình trạng khô âm đạo này.
Hỏi : Những điều trị chuẩn là gì ?
BS Michel Mouly : Điều trị tốt nhất vẫn là điều trị hormone của chứng mãn kinh (THM : traitement hormonal de la ménopause), không loại bỏ một điều trị liên kết tại chỗ. Tuy nhiên, THM bị chống chỉ định trong trường hợp những ung thư phụ thuộc hormone (của vú, của nội mạc tử cung…). Sự ngừng thuốc lá, góp phần làm giảm các oestrogène, là điều mong muốn, cũng như sự thực hành đều đặn những bài tập thể dục để tăng trương lực của sàn chậu và sự duy trì một hoạt động sinh dục, có lợi cho tuần hoàn và tính đàn hồi âm đạo. Những chất bôi trơn và những crème hydratante chỉ điều chỉnh tạm thời chứng khô âm đạo, với cái giá chảy nước gây khó chịu. Những oestrogène dùng tại chỗ (ovule hay vòng âm đạo) là hữu ích ở những bệnh nhân từ chối THM, nhưng cần phải tránh trong trường hợp ung thư phụ thuộc hormone.
Hỏi : Có những điều trị mới không ?
BS Michel Mouly :
1. Acide hyaluronique có một tác dụng volumateur và hydratant, kéo dài khoảng 9 tháng. Thuốc này được tiêm ở cabinet với gây tê tại chỗ trong phần thấp của âm đạo.
2. Radiofréquence thermocontrôlée nhằm làm nóng lên, trong 30 phút, niêm mạc ở một nhiệt độ không vượt quá 47 độ C, vào ba buổi cách nhau một tháng, rồi sau đó một buổi mỗi năm. Nó kích thích sự tạo thành collagène và làm tăng sức âm đạo.
3. Lipofilling, dựa trên những kỹ thuật lập đầy mô bằng mỡ, được thực hiện ở phòng mổ trong trường hợp di chứng quan trọng liên kết với radiothérapie.
4. Vào năm 2013, tôi đã du nhập ở Pháp laser C02 vaginal, được hiệu chính bởi équipe của GS Salvador ở Milan. laser này gây nên trong mô liên kết âm đạo, mà không đi sâu và do đó không gây nguy cơ đối với bàng quang và trực tràng, một choc thermique nhằm kích thích một protéine (HSP47) có tác dụng phục hoạt những fibroblaste, những tê bào sản xuất collagène. Niêm mạc âm đạo dày lên, tìm thấy lại pH acide và những lactobacille của âm đạo. 3 hay 4 buổi cách nhau một tháng là cần thiết. Thủ thuật gần như không đau và kéo dài 10 phút : một máy vô trùng được thầy thuốc thực hành đưa vào trong âm đạo, không gây mê, điều trị tất cả thành âm đạo. Sự tái tục hoạt động là tức thời. Tỷ lệ biến chứng là zéro. Chỉ số thỏa mãn trung bình 90% lúc 6 tháng, 72% lúc 12 tháng, 25% lúc 24 tháng, do đó sự cần thiết một buổi lập lại mỗi năm và, đôi khi cần một bổ sung bởi acide hyaluronique.
Hỏi : Phải chăng laser luôn luôn có thể áp dụng ?
BS Michel Mouly : Tôi đang tiến hành, với Viện Gustave-Roussy de Villejuif, một công trình nghiên cứu để đánh giá lợi ích của kỹ thuật này trong điều trị hỗ trợ ở những bệnh nhân bị ung thư.
(PARIS MATCH 21/6-27/6/2018)

10/ BẢO VỆ HIỆU QUẢ CHỐNG HIV
Những kháng thể là những protéine được gọi là immunoglobuline (Ig), được sản xuất bởi các bạch cầu (những tế bào lympho) để bảo vệ chúng ta chống lại quân xâm lược. Có 5 loại kháng thể, trong đó IgG và IgM. Những IgM là những lính bộ binh được gởi đi chiến đấu ở tuyến đầu khi một kẻ thù xâm nhập cơ thể của chúng ta. BS Ruth Ruprecht, giám đốc nghiên cứu chống HIV ở Biomedical Research Institute của Texas, vừa chứng minh trên khỉ rhésus tiếp xúc với virus gây bệnh Sida rằng những IgM hấp thụ virus này 5 lần tốt hơn bất cứ kháng thể nào khác, như thế ngăn cản virus HIV đi xuyên qua những niêm mạc và khuếch tán trong cơ thể (miễn dịch hoàn toàn trong 66% các trường hợp)
(PARIS MATCH 27/9-3/10/2018)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(19/10/2018)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

2 Responses to Thời sự y học số 485 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 492 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 601 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s