Thời sự y học số 472 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ UNG THƯ DẠ DÀY : ƯU TIÊN CHẨN ĐOÁN SỚM
Từ 6000 đến 7000 trường hợp mới ung thư dạ dày được chẩn đoán mỗi năm ở Pháp.
Nhiễm trùng bởi vi khuẩn ” Helicobacter pylori” chịu trách nhiệm 90% những trường hợp.CANCEROLOGIE. Đứng hàng thứ năm thế giới về tần số, ung thư dạ dày chiếm vị trí thứ ba về số người chết, gần 9% của tất cả những tử vong do ung thư. Tỷ lệ ung thư dạ dày thay đổi tùy theo những vùng của địa cầu, những chủng tộc và trình độ phát triển. Đông nam Á, Nhật Bản, Triều tiên và nhất là Trung hoa, bị ảnh hưởng mạnh, nhưng cũng Nam Mỹ. ” Trung gian ở Đông Âu, tỷ lệ của ung thư dạ dày thấp hơn ở Tây Âu, ngoại trừ Portugal, rất bị ảnh hưởng”, GS Tamara Matysiak-Budnik, gastro-entérologue và cancérologue (CHU Nantes).
Ở Pháp, từ 6000 đến 7000 trường hợp mới được chẩn đoán mỗi năm, đối với 4500 tử vong. Đó là một ung thư của người già, có tiên lượng tồi. Trong vài thập niên, những tiến bộ của vệ sinh ăn uống đã làm giảm nhiều tỷ lệ ung thư dạ dày, hôm nay khá ổn định.
Dạng thường gặp nhất, xảy ra ở thân và phần dưới của dạ dày, giảm dần dần, nhưng những ung thư của chỗ nối dạ dày-thực quản (cardia) hiếm hơn, gia tăng với dịch béo phì (làm dễ sự hồi lưu dạ dày-thực quản). Dưới 5% những ung thư có nguồn gốc di truyền. Thường đó là những ung thư “khuếch tán”, thâm nhiễm dạ dày, có tiên lượng rất xấu, xảy ra ở những người trẻ.
Nhưng yếu tố nguy cơ đầu tiên của ung thư dạ dày, đó là nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori, chịu trách nhiệm gần 90% các trường hợp. Vi khuẩn bị mắc phải trong thời kỳ thơ ấu này xâm thực niêm mạc dạ dày, thường nhất không gây triệu chứng. ” Sự liên kết được chứng minh giữa nhiễm trùng bởi H.pylori và ung thư dạ dày cũng mạnh như sự liên kết giữa thuốc lá và ung thư phổi “, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa đã giải thích như vậy. Ở Pháp, từ 20 đến 30% cá nhân bị nhiễm, nhưng 80% ở châu Phi và 10% trong những nước phương Bắc.
Trong số những người bị nhiễm bởi Helicobacter pylori, từ 2 đến 20% sẽ có một loét, và trong số họ 1% sẽ bị một ung thư dạ dày. ” Quá trình sinh ung thư phức tạp này trải dài trong nhiều thập niên và qua một một loạt các giai đoạn, trong đó giai đoạn đầu tiên, viêm dạ dày nông (gastrite superficielle), xảy ra nhưng không nhiễm trùng bởi H.pylori, điều này không có nghĩa rằng nhiễm trùng này là đủ.”, GS Matysiak-Budnik đã giải thích như vậy. Muối quá mức, thịt đỏ, những thức ăn hun khói, thuốc lá cũng làm dễ quá trình này, những trái cây và rau xanh có một tác dụng bảo vệ.
” Sư triệt trừ bằng kháng sinh nhiễm trùng bởi H.pylori chữa lành và làm thoái triển những viêm dạ dày nông (gastrite superficielle) và phần lớn những viêm dạ dày teo (gastrite atrophique), như thế phòng ngừa ung thư dạ dày.” Vì tỷ lệ của ung thư này thấp ở Pháp nên một điều tra phát hiện trên toàn dân không có vẻ thích ứng. Nhưng dépistage hiện hữu ở Nhật Bản, và Slovénie dự kiến điều này. Ngược lại, sự tìm kiếm H.pylori và triệt trừ nó là cần thiết trong những thể di truyền, ở những người bà con thế hệ thứ nhất của những người có một ung thư dạ dày, ở những người bị loét, viêm dạ dày teo, tiền ung thư, hay đã bị một cắt bỏ bán phần vì ung thư, và ở những người được điều trị lâu dài bởi vài thứ thuốc như thuốc chống toan, những IPP (inhibiteurs de la pompe à protons).
Nếu ung thư dạ dày có một tiên lượng xấu, trước hết đó là bởi vì chẩn đoán muộn vì những ung thư sớm không cho những triệu chứng. Đôi khi, một thương tổn sớm được khám phá bởi những dấu hiệu rất tổng quát như thiếu máu. ” Nhưng thường nhất chúng được phát hiện ở một giai đoạn tiến triển, bởi vì xảy ra một xuất huyết tiêu hóa, những triệu chứng đau giống với một loét dạ dày, gầy ốm, khó khăn trong ăn uống…Chính nội soi và sinh thiết các thương tổn xác nhận chẩn đoán này, GS Thomas Aparicio, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa và ung thư (bệnh viện Saint-Louis, Paris) đã giải thích như vậy. Nếu thương tổn nhỏ và nông, đôi khi nó được lấy đi bằng nội soi trong những trung tâm rất có kinh nghiệm. Nhưng soi ổ bụng (laparoscopie) ít được sử dụng hơn như trong ung thư đại tràng, và sự cắt bỏ ngoại khoa thường được thực hiện bằng cách mở bụng.”
Tiến bộ chính của 15 năm qua trong sự cải thiện tỷ lệ sinh tồn, đó là hóa trị chu phẫu (chimiothérapie peropératoire), với, nói chung, hai tháng hóa trị tiền phẫu (chimiothérapie préopératoire) để làm giảm khối u và loại bỏ những di căn vi thể, và hai tháng hóa trị hậu phẫu (chimiothérapie postopératoire).
30% những ung thư di căn (cancers métastatiques) không được mổ tức thời. Như đối với những ung thư khác, những dạng di căn này bắt đầu hưởng được những tiến bộ của thérapie ciblée và miễn dịch liệu pháp (immunothérapie). Nhưng, nhìn toàn bộ, những tiến bộ là khiêm tốn và những thử nghiệm thường gây thất vọng.“Vũ khí của chúng ta vẫn là phát hiện, càng sớm càng tốt ; sự điều tra phát hiện này đã tiến bộ một ít vì lẽ ta nhận diện sớm 10% những ung thư nông, so với 4% cách nay 10 năm. Những trắc nghiệm mới đang được đánh giá có thể giúp cải thiện sự điều tra phát hiện này”.
(LE FIGARO 11/6/2018)

2/ UNG THƯ DẠ DÀY : NHỮNG TIẾN BỘ TỪNG BƯỚC NHỎ CỦA ĐIỀU TRỊ
Trong trường hợp nghi viêm dạ dày (gastrite), examen de référence là nội soi. Nếu một u nhỏ được phát hiện, nó được sinh thiết. Khi sinh thiết xác nhận tính chất ung thư của nó, một bilan d’extension bằng scanner được thực hiện để phát hiện những di căn.” Khi u có kích thước nhỏ, rất khu trú, một écho-endoscopie cho phép đo chiều sâu của sự xâm nhập của ung thư trong niêm mạc. Nếu u rất nông, nó có thể được lấy đi bằng nội soi theo những nguyên tắc rất nghiêm túc. Điều đó chỉ có thể được thực hiện bởi những équipe rất năng lực, có một kỹ thuật nội soi rất tốt “, GS Aparicio đã giải thích như vậy.
Nhưng, phần lớn, các ung thư dạ dày không di căn (cancers gastriques non métastatiques) được mổ bởi chirurgie laparotomique classique. Từ 15 năm nay hóa trị hậu phẫu (chimiothérapie postopératoire) nhường chỗ cho một hóa trị chu phẫu (chimiothérapie périopératoire) (hai tháng trước và hai tháng sau can thiệp), điều này đã góp phần nhiều trong sự cải thiện sự sống còn, vì hóa trị tiền phẫu (chimiothérapie préopératoire) cho phép làm giảm kích thước của khối u và nguy cơ di căn. Từ ít lâu nay, một standard de chimiothérapie mới, phối hợp 3 loại thuốc, cải thiện tiên lượng trong những ung thư tiến triển.
Trái với những gì xảy ra trong ung thư đại tràng, trong ung thư dạ dày không có chỉ dấu tiên lượng (marqueur pronostique) của sự tiến triển. Một trắc nghiệm mới cho phép phát hiện bằng biologie moléculaire hay histochimie một sous-groupe ung thư, được gọi là cancers à instabilité microsatellite, hiện diện trong 10 đến 15% những trường hợp và chỉ một tiên lượng tốt hơn.
VAI TRÒ CỦA MIỄN DỊCH LIỆU PHÁP.
Cũng không có chỉ dấu tiên đoán (marqueur prédictif) về sự đáp ứng của một ung thư dạ dày đối với điều trị. Trong những ung thư với di căn, sự tìm kiếm protéine HER2 cho phép điều trị 15% những bệnh nhân (mà ung thư surexprimer protéine này), bằng trastuzumab, một kháng thể đơn dòng (anticorps monoclonal) cải thiện tính hiệu quả của hóa trị và sự sống còn ở những bệnh nhân này. ” Trong biothérapie, một thuốc duy nhất đã chứng tỏ một cải thiện nhỏ của tỷ lệ sống còn, đơn độc hay phối hợp, ramucirumab “, GS Aparicio đã xác nhận như vậy. Đó là một anti-VEGF2, một yếu tố chống sinh mạch máu (facteur anti-angiogénique) làm giảm sự sinh mạch máu trong khối u (vascularisation tumorale).” Nhưng lợi ích của điều trị này là khiêm tốn, và ở Pháp không được bồi hoàn bởi bảo hiểm y tế.”
Đường khác, đường của miễn dịch liệu pháp, của những inhibiteurs de PD1 hay PD-L1. Những inhibiteur, bằng cách phong bế “checkpoint” này, cho phép phục hồi tính miễn dịch chống ung thư (immunité antitumorale). Ở những bệnh nhân mà ung thư đã tiến triển mặc dầu một điều trị đầu tiên, những inhibiteur này có thể có một lợi ích điều trị. ” Một inhibiteur duy nhất trong số này, nivolumab, trong những thử nghiệm lâm sàng, đã cho thấy lợi được 1 tháng sống còn “, GS Matysiak-Budnik đã chỉ như vậy. Được trình bày ở hội nghị thế giới của ung thư học, những kết quả của một inhibiteur de PD1 khác, pembrolizumab, trong một thử nghiệm, gây thất vọng trong những ung thư dạ dày tiến triển đã được điều trị không thành công.
(LE FIGARO 11/6/2018)

3/ TẦM QUAN TRỌNG GIA TĂNG CỦA ONCOGÉNÉTIQUE
Nếu sự xếp loại cổ điển các ung thư vẫn giữ tầm quan trọng của nó, sự định đặc điểm của những biến đổi di truyền, mặc dầu một phần đi vào thực hành, có lẽ sẽ chiếm một vị trí ngày càng gia tăng trong sự lựa chọn điều trị.
” Chúng ta đã khám phá từ ít lâu nay rằng trên thực tế có 4 họ lớn ung thư dạ dày, thực hiện một loại gradient anatomique, với những biến đổi di truyền và những loại khác nhau từ cao xuống thấp của dạ dày, GS Pierre-Laurent Puig, oncogénéticien (HEGP, Paris) đã giải thích như vậy. Vài ung thư, có một bất ổn định nhiễm sắc thể (instabilité chromosomique) và có một khuếch đại của protéine HER2, xảy ra ngay ở chỗ nối dạ dày-thực quản (jonction gastro-oesophagienne). Rồi xuất hiện lần lượt những loại khác, trước hết những ung thư được gọi là EBV, rồi những tumeurs à MSI hay cancers à instabilité microsatellite (những biến đổi di truyền đặc biệt), và sau cùng những ung thư được gọi là cancer à phénotype stable, không thuộc một nhóm nào trong ba nhóm trên.” Những trắc nghiệm đơn giản cho phép nhận diện 4 loại ung thư này.
Sự xếp loại mới này sẽ có những hậu quả điều trị, đặc biệt những tumeur à MSI, nhạy cảm hơn đối với miễn dịch liệu pháp như những inhibiteur PD1-PDL1, và đối với những tumeur à instabilité chromosomique, biểu hiện HER2 và sẽ đáp ứng với anti-HER2. ” Sự xếp loại này có lẽ sẽ cho phép một approche pronostique tốt hơn và những nhóm bệnh nhân đồng nhất hơn trong những thử nghiệm điều trị “, GS Aparicio đã đánh giá như vậy.
Những nghiên cứu khác đang được tiến hành về những thay đổi di truyền đặc hiệu của những tumeur à phénotype stable. Đó là trường hợp của những kháng thể chống lại những claudine, những protéine xuyên màng liên quan trong sự biến đổi ung thư, điều này có một lợi ích tiên lượng.
” Đối với tất cả những công trình nghiên cứu này, điều quan trọng là có những biobanque de tumeurs, như Fregat, thu thập những dữ kiện lâm sàng và sinh học của những ung thư dạ dày-thực quản ở Pháp. Những bệnh nhân, lúc cho những échantillons de tumeur, đóng một vai trò thiết yếu “, GS Pierre-Laurent Puig đã nhấn mạnh.
(LE FIGARO 11/6/2018)

4/ NAPOLEON VÀ UNG THƯ DẠ DÀY
Cái chết của Napoléon ở Sainte-Hélène ngày 5 tháng năm 1821 đã gây nên nhiều tranh cãi, giữa thuyết về độc chất và thuyết về ung thư dạ dày. Sinh thiết, được thực hiện bởi các thầy thuốc của thời kỳ đó sau khi ông chết, đã nhận diện, ngoài những thương tổn khác nhau, một vết loét lớn bị thủng của dạ dày, dường như do ung thư và một khối u gần môn vị, nó cũng gợi một ung thư. Việc khám phá arsenic trong tóc của cựu hoàng, được xác nhận bởi những phân tích trong những năm 60, đã làm sống dậy giả thuyết về một ngộ độc mãn tính và giả thuyết về chất độc, cho mãi đến khi những phân tích khác cho thấy, vào cuối những năm 2000, rằng những nồng độ arsenic được tìm thấy, mặc dầu 100 lần cao hơn những nồng độ hôm nay, không có gì đặc biệt vào thời kỳ đó. Vào năm 2016, một kíp quốc tế có Pháp tham dự đã xem xét và giải thích lại báo cáo giải phẫu tử thi của Napoléon. Kết luận : sự phân tích những đặc điểm, những kích thước và bề ngoài của thương tổn chính rất thuận lợi cho một ung thư dạ dày ở giai đoạn cuối. Đối với các tác giả, vậy vấn đề được giải quyết một cách rõ ràng và dứt điểm.
(LE FIGARO 11/6/2018)

5/ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : MỘT TRẮC NGHIỆM ĐỂ TIÊN ĐOÁN TIẾN TRIỂN CỦA NÓ
CANCEROLOGIE. Đó là một bước nữa tiến về một médecine personnalisée et de précision. Một équipe lớn những nhà nghiên cứu của Inserm, của các đại học Paris-Descartes và Pierre-et-Marie-Curie, cũng như những thầy thuốc của Assistance publique-Hôpitaux de Paris, vừa hiệu chính một trắc nghiệm được mệnh danh immunoscore cho phép biết được bằng cách nào một ung thư đại tràng sẽ tiến triển và như thế có thể thích ứng liệu pháp của bệnh nhân.
” Mức độ nghiêm trọng của các ung thư, đặc biệt những ung thư đại tràng, chủ yếu được đánh giá bởi mức độ lan rộng của ung thư trong cơ quan bị thương tổn và bởi sự hiện diện của các di căn “, các nhà nghiên cứu, được chỉ đạo bởi GS Franck Pagès, thuộc Hôpital Européen Georges-Pompidou, đã viết như vậy. Trong những năm qua, các nhà nghiên cứu nhận xét rằng, sự hiện diện ít hay nhiều của những tế bào miễn dịch thâm nhiễm khối u, cho những chỉ định về cách mà khối u có thể tiến triển.
Do đó họ đã thành lập một consortium international, quy tụ 14 trung tâm miễn dịch học và cơ thể bệnh lý, có cơ sở trong 14 nước, cho phép khảo sát 2681 bệnh nhân. Trắc nghiệm đo toàn bộ số những tế bào lympho T (CD3) và lymphocytes tueurs (CD8). Công trình nghiên cứu đã cho phép chứng minh rằng những bệnh nhân có thể được phân thành 3 nhóm căn cứ trên nguy cơ tái phát lúc 5 năm, cho một điểm số (score) mạnh, trung gian và yếu.
Những bệnh nhân có một immunoscore mạnh (nhiều tế bào lympho) có nguy cơ tái phát thấp nhất và tỷ lệ sống còn tốt hơn. Như thế, chỉ 8% của những người có một immunoscore mạnh có một tái pháp lúc năm năm, so với 19% với một score trung gian và 32% với một score yếu. ” Những kết quả này là thuận lợi cho sự sử dụng test immunoscore như là một thành phần mới của sự xếp loại của các ung thư để thích ứng tốt hơn những điều trị cho các bệnh nhân tùy theo nguy cơ tái phát, đặc biệt điều biến những hóa trị”, các nhà nghiên cứu đã viết như vậy.
(LE FIGARO 4/6/2018)

6/ UNG THƯ TỤY TẠNG : PHẢI HÀNH ĐỘNG NHANH
GS Aimery de Gramont, chef du pole d’oncologie de l’Institut hospitalier franco-britannique, à Levallois-Perret, giải thích rằng một điều trị nhanh trong một trung tâm chuyên môn đôi khi thay đổi tiên lượng của ung thư tụy tạng.
Hỏi : Tần số của ung thư tụy tạng ở Pháp ?
GS Aimery de Gramont. Tần số gia tăng ! Ta ước tính 10.000 trường hợp mới mỗi năm. Ung thư tụy tạng xảy ra ở đàn ông hai lần nhiều hơn đàn bà.
Hỏi : Tại sao ung thư này có tiếng xấu ?
GS Aimery de Gramont. Bởi vì trong bụng, tụy tạng là một cơ quan sâu, tình hình này đưa đến những chẩn đoán thường quá muộn. Đôi khi, lúc chụp hình ảnh bụng, ta có thể thấy những kyste pancréatique mà một vài là những trạng thái tiền ung thư (état précancéreux).
Hỏi : Ta có biết nguyên nhân không và những yếu tố nguy cơ gì ?
GS Aimery de Gramont. Bị nghi ngờ là những yếu tố nguy cơ gồm có bệnh đái đường, chứng béo phì, một chế độ ăn uống nhiều mỡ, nhiều thịt, ít rau xanh và folate (vitamine B9). Nhưng một yếu tố nguy cơ gần như chắc chắn : thuốc lá. Viêm tụy tạng mãn tính là một yếu tố làm dễ. Có những thể di truyền, có thể hoặc là riêng biệt, hoặc được kèm theo bởi những ung thư khác. Khi đó một étude oncogénétique (tìm kiếm các gène của ung thư) được đòi hỏi, nhất là ở những bệnh nhân trẻ.
Hỏi : Những dấu hiệu báo động nào ?
GS Aimery de Gramont. Lúc đầu đau bụng và ăn mất ngon với mất cân. Đôi khi vàng da (“jaunisse” do đè ép đường mật), ỉa chảy hay đái đường.
Hỏi : Những thăm dò nào xác nhận chẩn đoán ?
GS Aimery de Gramont. 1. Chụp hình ảnh, siêu âm hay scanner có thể phát hiện một ung thư tụy tạng.2. Một sinh thiết sẽ xác nhận chẩn đoán khi thực hiện échoendoscopie, cũng cho phép đặt một prothèse trong đường mật khi chúng bị đè ép (bắt buộc trong trường hợp hoàng đản). Sinh thiết cho phép loại bỏ một dạng khác của ung thư này, hiếm hơn và ít nghiêm trọng hơn, mà ta gọi là tumeur neuroendocrine. Chất chỉ dấu CA 19-9 trong máu tăng cao và hữu ích để theo dõi.
3. Rồi một bilan d’extension sẽ định rõ giai đoạn, gồm một scanner ngực và một IRM tụy tạng.
Hỏi : Những điều trị hiện nay là gì ?
GS Aimery de Gramont. 1. Ngoại khoa là điều trị chữa lành của những dạng khu trú. Ta lấy đầu và thân tụy tạng hay đuôi tụy tạng với lách, tùy theo định vị khối u. Đó là một ngoại khoa nặng nhưng được xử lý tốt trong những centre expert. Phẫu thuật được bổ sung bởi hóa trị.
2. Khi ung thư quá tiến triển hay không thể mổ được vì tiếp xúc với mạch máu, điều trị khi đó là hóa trị. Những bệnh nhân đáp ứng với điều trị đôi khi có thể được mổ về sau hay nhận một xạ-hóa trị (radiochimiothérapie).
3. Sau cùng, nhưng di căn được điều trị bằng hóa trị, được điều biến tùy theo tình trạng tổng quát. Những điều trị này gia tăng tỷ lệ chữa lành hay kéo dài hy vọng sống.
Hỏi : Những điểm mạnh nào trong khoa ung thư của ông ?
GS Aimery de Gramont. Quá nhiều bệnh nhân đến trong tình trạng tổng quát xấu, ở giai đoạn di căn, điều này làm cho những điều trị trở nên khó, thậm chí không thể thực hiện. Trong viện của chúng tôi, được thành lập cách nay 3 năm, chúng tôi đã bắt đầu một protocole để tránh một chậm trễ chẩn đoán và tối ưu hóa sự điều trị bằng cách tổ chức một parcours de soins cực nhanh trong 8 ngày (từ lấy hẹn đầu tiên đến lúc bắt đầu điều trị). Một tuần để chẩn đoán, làm bilan, nhưng cũng điều trị đau, dinh dưỡng và người với những soins de support bởi psychologuen socio-esthéticien, sophrologue, kinésithérapeute và diététicien.
Hỏi : Ta có hy vọng một điều trị mới không ?
GS Aimery de Gramont. Hóa trị hiện nay tăng gấp đôi tỷ lệ chữa lành. Folfirinox, được hiệu chính ở Pháp hay những thuốc, được cải thiện bởi những nanoparticule, tăng gấp đôi sự sống còn. Ngoài ra, vài bệnh nhân co thể nhận miễn dịch liệu pháp, mà ta chờ đợi nhiều cho tương lai. Sự nghiên cứu cũng nhắm vào môi trường đặc biệt gây ung thư của những ung thư tụy tạng. Còn những loan báo ly kỳ như bọt biển lục (éponge verte) ở đáy biển Alaska, có tác dụng giết một cách đặc hiệu những tế bào ung thư tụy tạng, phải thận trọng bởi vì, trước khi hợp thức hóa hướng nghiên cứu này, phải nhận diện rồi trích những hoạt chất của bọt biển, trắc nghiệm chúng trong phòng thí nghiệm và thực hiện những thử nghiệm điều trị có tính chất chứng thực.
(PARIS MATCH 17/5-23/5/2018)

7/ MỘT VI KHUẨN CỦA DA DẤU MỘT VŨ KHÍ CHỐNG UNG THƯ
” Đó là lần đầu tiên mà ta quan sát một mối liên hệ trực tiếp giữa sự hiện diện của một vi khuẩn và một tác dụng bảo vệ chống ung thư “, thầy thuốc và nhà nghiên cứu Richard Gallo, của Đại học Californie, đã lấy làm vui sướng. Vi khuẩn này, đó là Staphylococcus epidermidis, ưa thích ở trong biểu bì của chúng ta. Ngoài ra đó là loại chiem đa số trong số những vi khuẩn sống trong 2m2 da phủ một cơ thể của người trưởng thành. ” Ta đã khám phá rằng một souche đặc biệt của Staphylococcus epidermidis sản xuất một enzyme có khả năng giết những tế bào ung thư của da, và điều này, không gây tổn hại đối với những tế bào lành mạnh của biểu bì “, ông đã giải thích như vậy. Enzyme này có tên 6-HAP, và cho phép ức chế sự tổng hợp ADN của những tế bào ung thư, cũng như sự tổng hợp ADN của những vi khuẩn khác mà chống lại chúng souche này của Staphylococcus epidermidis tìm cách chống lại. Tuy nhiên tác dụng trời cho này không phổ biến : ” Ít người có một cách tự nhiên souche bảo vệ này “, nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh như vậy. Để sửa sự bất công này, nhưng chủ yếu để nhiên hậu đề nghị một điều trị phòng ngừa cách mạng chống lại ung thư da, các nhà nghiên cứu vừa bắt đầu một thử nghiệm lâm sàng đúng quy trình.
(SCIENCE&VIE 5/2018)

8/ HEN PHẾ QUẢN : NHỮNG TIẾN BỘ ĐIỀU TRỊ.
BS Marc Sapène, chủ tịch của hiệp hội hen phế quản và dị ứng, Clinique Bel-Air, Bordeaux và GS Pascal Chanez, pneumologue, Clinique des bronches, de l’allergie et du sommeil, AP-Hopitaux Marseille, điểm lại tình hình của căn bệnh này, nhân Journée mondiale l ‘asthme (1er Mai 2018)
Hỏi : Hen phế quản là gì ?
BS Marc Sapène. Đó là một bệnh liên kết một viêm mãn tính của các phế quản với một tăng phản ứng (hyperréactivité) và những biến đổi cấu trúc của các phế quản này. Hen phế quản gây những trở ngại hô hấp (các cơ quanh các phế quản co và đóng chúng), thay đổi và có thể đảo ngược, được phát khởi bởi những yếu tố làm dễ khác nhau.
Hỏi : Ở Pháp có bao nhiêu bệnh nhân hen phế quản ?
BS Marc Sapène. Hơn 4 triệu, trong đó 12-15% trẻ em. Tất cả có một viêm mãn tính của các phế quản ; 70% là những người dị ứng (đối với một dị ứng nguyên) ; 10% của tất cả những người hen phế quản có một thể nặng. Dưới ảnh hưởng của những yếu tố làm dễ liên kết với đời sống hiện đại (sự đô thị hóa, bệnh béo phì…), tần số của bệnh này, chịu trách nhiệm mỗi năm khoảng 1000 tử vong, không ngừng gia tăng từ 20 năm nay (+40%)
Hỏi : Ta có biết những yếu tố khởi phát không ?
BS Marc Sapène. Hen phế quản là do sự gặp gỡ của một thể địa di truyền với những yếu tố môi trường. Thường gặp nhất là những dị ứng nguyên như những acarien (70% những trường hợp), nhưng cũng những phấn hoa, mèo…Những nhiễm trùng virus, sự ô nhiễm (thuốc lá, không khí bị ô nhiễm, những hạt nhỏ), stress và thuốc (aspirine) là những yếu tố môi trường khác.Nhiều gène có liên hệ, nhất là gène mã hóa protéine interleukine-33 được gọi là “alarmine” : được sản xuất bởi sự gặp gỡ của một dị ứng nguyên với biểu mô phế quản, nó gây nên và khởi phát chuỗi những phản ứng sinh học gây nên những triệu chứng.
Hỏi : Điều gì xác nhận chẩn đoán ?
BS Marc Sapène. Tính chất biến thiên của các dấu hiệu (ho khan liên tiếp hay tức thở, thậm chí làm nghẽn toàn bộ sự hô hấp, đe dọa mạng sống) là thích hợp với hen phế quản. Phép đo phế dung (spirométrie), đo những thể tích (volumes) và những lưu lượng hô hấp (débit respiratoire), xác nhận chẩn đoán : những lưu lượng bị giảm nhưng được cải thiện sau giãn phế quản (nhưng không đối với những bệnh phế quản mãn tính khác). Một test d’inhalation gây những triệu chứng đôi khi được thực hiện trong môi trường an toàn. Nhiều phénotype có thể nhận diện.
Hỏi : Điều trị của hen phế quản là gì ?
BS Marc Sapène. Trong 50% các trường hợp, hen phế quản là nhẹ, ngẫu nhiên, có thể kiểm soát bởi những thuốc kháng viêm (corticoides inhalés rất hiệu quả với những liều nhỏ và dung nạp tốt), liên kết với những thuốc giãn phế quản. Trong 35% những trường hợp, hen kéo dài, đòi hỏi một điều trị nền liên tục với cùng những loại thuốc nhưng liều mạnh hơn. Những thể trung bình này không tránh được những đợt bộc phát (những triệu chứng trong hơn hai ngày mặc dầu điều trị), đôi khi nghiêm trọng (détresse respiratoire aigue với nguy cơ tử vong). Do đó lợi ích giáo dục bệnh nhân để tránh chúng. Sau cùng, vài bệnh nhân hen phế quân bị những thể khó điều trị hay nặng.
Hỏi : Chúng được điều trị như thế nào ?
GS Pascal Chanez. Hen phế quản là khó điều trị khi nó không thể kiểm soát được bởi điều trị chuẩn và khi những cơn bộc phát thường xảy ra. Nếu sau 6 đến 12 tháng điều trị tối ưu trong một centre expert mà sự kiểm soát không đạt được, hen phế quan được gọi là nặng (asthme sévère). Để điều trị nó, từ nay ta có biothérapies ciblées, được thích ứng với những đặc điểm của bệnh nhân, dung nạp tốt và càng ngày càng hiệu năng. Phần lớn là những kháng thể đơn dòng (anticorps monoclonaux), phong bế một cách đặc hiệu một giai đoạn hay một khâu chủ chốt của chuỗi viêm. Những kháng thể đơn dòng mới nhất (anti-alarmine) là đầy hứa hẹn, bởi vì chúng phong bế giai đoạn đầu của viêm.
Hỏi : Thermoplastie bronchique là gì ?
GS Pascal Chanez. Đó là sự đưa vào trong các phế quản, dưới gây mê tổng quát, một điện cực, sưởi nóng, do tiếp xúc 65 độ C, đường dẫn khí (bằng 3 buổi cách quãng). Nó làm giảm bề dày của cơ phế quản, điều này cải thiện chất lượng sống của các bệnh nhân, giảm tần số và cường độ của các cơn bộc phát với một sự dung nạp thỏa mãn. Lợi ich vẫn còn lúc 5 năm. Chỉ định của nó năm 2018 là những bệnh nhân không đáp ứng với biothérapie.
(PARIS MATCH 10-16/5/2018)

9/ NGỦ MUỘN CHẾT SỚM HƠN
Ngủ muộn gia tăng 10% nguy cơ tử vong so với những người dậy sớm. Nguyên nhân, một tỷ lệ mạnh nhiều bệnh lý : gần 2 lần nhưng rối loạn tâm lý nhiều hơn so với người dậy sớm, 30% bệnh đái đường nhiều hơn, 22% những rối loạn hô hấp nhiều hơn,…Tỷ lệ này được giải thích bởi nhiều yếu tố : sự chênh lệch giữa đồng hồ sinh học nội tại và đời sống xã hội, những thói quen ăn uống xấu, những cơ hội lớn hơn tiếp cận với những chất tác động tâm thần (substances psychoactives), sự rối loạn của tác dụng của mélatonine,… ” Chronology interntional “, tháng tư 2018.
(SCIENCE ET VIE 6/2018)

10/ THAI NGHÉN VÀ BỆNH SIDA
Theo một công trình nghiên cứu của đại học Washington, thai nghén và 6 tháng tiếp theo (thời kỳ hậu sản) có nguy cơ rất cao bị nhiễm bệnh Sida đối với những phụ nữ không dùng préservatif với người phối ngẫu bị nhiễm HIV. Nguy cơ trong thời kỳ này tăng gấp 4.
(PARIS MATCH 17/5-23/5/2018)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(20/6/2018)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

4 Responses to Thời sự y học số 472 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 498 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 517 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  3. Pingback: Thời sự y học số 524 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  4. Pingback: Thời sự y học số 605 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s