Thời sự y học số 465 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ LUPUS : MỘT CUỘC SỐNG BÌNH THƯỜNG ĐỐI VỚI PHẦN LỚN CÁC BỆNH NHÂN.
Từ nay ở Pháp tỷ lệ sống sót lúc 10 năm sau chẩn đoán gần 95%.IMMUNOLOGIE. ” Sự định lượng dương tính của các kháng thể chống nhân (anticorps antinucléaires) không có nghĩa là ta bị bệnh lupus, GS Christian Jorgensen, giám đốc của viện nghiên cứu y khoa tái sinh (médecine régénérative) và sinh liệu pháp (biothérapies) ở CHU de Montpellier, đã nói như vậy. Như phần lớn các chuyên gia của căn bệnh tự miễn dịch này, ông vui sướng rằng các thầy thuốc nghĩ đến căn bệnh này thường hơn và cho thực hiện phân tích máu, nhưng ông nhấn mạnh rằng phân tích này, đơn độc, không bao giờ đủ, để xác lập chẩn đoán lupus. Lupus là một bệnh hiếm, gây bệnh khoảng 30.000 bệnh nhân ở Pháp : căn bệnh này xảy ra ở 9 phụ nữ đối với một đàn ông. Sự cải thiện của sự điều trị trong 10 năm qua đã hoàn toàn biến đổi tiên lượng của nó trong thời gian dài và trung hạn : tỷ lệ sống còn lúc 10 năm sau chẩn đoán từ nay gần 95% ở Pháp.
Những nguyên nhân của lupus vẫn còn không được biết rõ nhưng chúng dường như do nhiều yếu tố. Những người sinh đôi thật (vraies jumelles), thường tất cả hai đều bị bệnh và lupus thường xảy ra hơn trong những gia đình mà những bệnh tự miễn dịch đã hiện diện, điều này chỉ rõ một nguồn gốc di truyền. Bệnh thường gặp hơn ở những phụ nữ mang một bản đôi (double exemplaire) nhiễm sắc thể X, trên đó có nhiều gène có liên quan trong chức năng của hệ miễn dịch. Lupus và những cơn bộc phát của nó cũng được làm dễ bởi oestrogènes : nó xuất hiện khi các phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ (đọc dưới đây). Sự xuất hiện của lupus dường như đáp ứng với những yếu tố môi trường : vài loại thuốc có thể gây một đợt bộc phát duy nhất, biến mất tức thời sau khi ngừng thuốc.
Cũng như đối với những bệnh tự miễn dịch khác, lupus được đặc trưng bởi một phản ứng tự miễn dịch không thích hợp (réaction immunitaire inappropriée), vừa do sự sản xuất của các kháng thể chống lại những phân tử bình thường hiện diện trong vài cơ quan và vừa do một sự chậm lại của quá trình “làm sạch” (nettoyage) các tế bào lympho, được triệu tập bởi hệ miễn dịch, dường như là trách nhiệm chính của những triệu chứng. Những kháng thể chống nhân (anticorps antinucléaires), nhiều nhất trong bệnh lupus, hiện diện trong những bệnh tự miễn dịch khác và trong 5 đến 15% của population générale mà không liên kết với một bệnh lý, đặc biệt ở những phụ nữ có thai và những người già.
Vậy, phản xạ tốt, đứng trước một kết quả dương tính của các kháng thể chống nhân, là hướng bệnh nhân đến một trung tâm chuyên môn, trong đó các chuyên gia có thể bổ sung xét nghiệm này để hướng định chẩn đoán. Họ cũng tìm kiếm những yếu tố khác cần thiết cho một điều trị, sẽ càng có hiệu quả khi chẩn đoán càng được xác lập sớm. ” Điều quan trọng nhất là xác lập một chẩn đoán đúng và sớm để bảo vệ tốt nhất các bệnh nhân “, GS Pierre Miossec, trưởng khoa immunologie clinique và rhumatologie của bệnh viện Edouard-Herriot (Lyon) đã xác định như vậy. Nó cho phép không bỏ qua những bệnh lý khác và, nếu lupus được xác nhận, cho phép định rõ cách biểu hiện của nó đối với mỗi bệnh nhân cũng như những bệnh lý liên kết để đề nghị điều trị tốt nhất. Sự nhiệt huyết quá mức của các thầy thuốc đa khoa để tìm kiếm những kháng thể chống nhân, mặc dầu những chỉ định xấu, có lẽ cũng cho phép phát hiện nhiều lupus trước khi chúng có những hậu quả nghiêm trọng hơn.
Trong lupus, sự tích tụ của những sản phẩm phụ của đáp ứng miễn dịch và của đáp ứng viêm được gây nên, chủ yếu có những tác dụng lên da, thận, hệ tim mạch và hiếm hơn trên não. Những dấu hiệu đầu tiên thường nhất ở da, đặc biệt trên mặt, nhưng chúng cũng có thể vừa kín đáo hơn, vừa đặc hiệu hơn, điều này làm phức tạp chẩn đoán.Bệnh nhân đôi khi cảm thấy rất mệt, đau khớp, đau đầu, sốt nhẹ hay một sự nhạy cảm gia tăng với ánh sáng : bấy nhiêu triệu chứng có thể xảy ra trong những bệnh lý khác hay ngay cả ở những người hoàn toàn lành mạnh. Đối với phần lớn các bệnh nhân, căn bệnh không nghiêm trọng và có thể ngay cả, trong vài trường hợp, chỉ gây một cơn bộc phát riêng rẻ chỉ cần điều trị.Đối với những bệnh nhân khác, căn bệnh thỉnh thoảng lại trỗi dậy, nhưng không có hậu quả quan trọng. Đối với người thầy thuốc, phải nhận diện một cách nhanh chóng 20% những bệnh nhân có một dạng nặng của lupus, có thể gây thương tổn thận, não hay những huyết quản. Ông ta cũng sẽ tìm kiếm những bệnh nhân bị một syndrome antiphospholipide, hiện diện ở 20 đến 40% những bệnh nhân, và lúc tấn công các thành mạch máu, gây nên những huyết khối có thể gây những biến cố huyết quản quan trọng.
Mặc dầu chưa có điều trị chữa lành đối với lupus, arsenal thérapeutique mở rộng ra cùng lúc với một sự thông hiểu tốt hơn của căn bệnh, cho phép kiểm soát nó và theo đuổi cuộc đời mình.
(LE FIGARO 21/1/2017)

2/ LUPUS : CÒN CẦN PHẢI ĐIỀU TRỊ MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN
” Còn điều trị của bà, phải chăng bà đã thực hiện ít nhất một phần ? ” Câu hỏi này, nhằm tránh làm cho họ cảm thấy một cảm giác tội lỗi, là yếu tố chính của sự theo dõi các bệnh nhân trong khoa của GS Catherine Costedoat-Chalumeau, phụ trách điều trị các bệnh tự miễn dịch của trung tâm những bệnh hiếm của bệnh viện Cochin, Paris.
Thật vậy các công trình nghiên cứu cho thấy rằng dầu cho căn bệnh là gì, 34% các bệnh nhân không tuân thủ điều trị, nhất là khi căn bệnh lâu dài và điều trị phức tạp để theo thực hiện. Lúc định lượng nồng độ trong máu của Plaquenil (hydroxychloroquine), một trong những thuốc điều trị chính của lupus, trong một công trình nghiên cứu nhằm đánh giá tính hiệu quả của nó đối với liều lượng, équipe của công trình đã chứng thực rằng 20% bệnh nhân không tiếp tục điều trị của họ nữa, đôi khi đã từ lâu.
Các thuốc được cho với những liều cao khi chúng nhằm làm dịu những đợt bộc phát của căn bệnh nhưng, một khi cơn đã qua, phải tìm những liều tối ưu của những thuốc khác nhau để ngăn cản những đợt bộc phát đồng thời hạn chế những tác dụng phụ.
Cortisone, rất hiệu quả trên những đợt bộc phát, có nhiều tác dụng phụ và sự sử dụng những thuốc chống viêm khác và những thuốc làm suy giảm miễn dịch cho phép hạn chế những liều lượng. Plaquenil, một thuốc chống sốt rét được sử dụng trong nhiều bệnh tự miễn dịch bởi vì nó tác động đồng thời lên viêm và lên đáp ứng viêm, như thế thường là đủ, sử dụng một mình hay phối hợp với cortisone.
TRÁNH LEO THANG ĐIỀU TRỊ
” Trước khi đặt cho tôi câu hỏi về một sự thất bại của thuốc được biết rõ này (Plaquenil), ít đắt và rất hiệu quả, vậy tôi thử biết xem bệnh nhân có vấn đề gi trong việc dùng thuốc điều trị và chúng tôi cũng tìm kiếm những phương tiện để cải thiện sự tuân thủ điều trị “, GS Costedoat đã xác nhận như vậy.
Sự định lượng của Plaquenil, dễ làm, sẽ hỗ trợ cho démarche này, với sự giáo dục điều trị các bệnh nhân, cho phép tránh một sự leo thang điều trị hướng đến những loại thuốc đắt hơn, nhưng không nhất thiết hiệu quả hơn, mà những hiệu quả lâu dài ít được biết rõ.
Ngoài ra, lúc biết tốt hơn thái độ của bệnh nhân đối với điều trị, ta có thể tối ưu hóa liều lượng so với hiệu quả được mong chờ và được bệnh nhân mong muốn, nhất là đối với cortisone, từ nay được kê đơn với những liều thấp nhất có thể được để tránh những tác dụng phụ trong thời gian trung và dài hạn. ” Sự điều trị bệnh lupus của chúng ta đã thay đổi nhiều trong 10 năm qua, ngay cả không tính đến những loại thuốc rất mới, với ít bệnh nhân được điều trị cortisone “, GS Costedoat đã lấy làm phấn khởi như vậy.
(LE FIGARO 21/1/2017)

3/ LUPUS : THAI NGHÉN YÊN LÀNH NGAY CẢ KHI CHỈ CẦN THEO DÕI.
Cho đến cuối thế kỷ qua, phần lớn các thầy thuốc khuyên những bệnh nhân bị bệnh lupus không nên có thai. Do đó chẩn đoán này đặc biệt làm đau khổ đối với phần lớn những phụ nữ liên hệ, trẻ và trong lứa tuổi sinh đẻ. Thật vậy, thai nghén và oestrogène đi kèm đôi khi gây một đợt bộc phát của bệnh, nguy hiểm đối với mẹ và thai nhi, nhất là khi phải ngừng các điều trị.
” Hôm nay, không có một lý đó gì ngăn cản một phụ nữ trẻ bị lupus có thai, GS Catherine Costedoat đã nói như vậy. Trái lại, điều quan trọng là bệnh nhân phải được theo dõi đều đặn trong một trung tâm chuyên khoa liên hệ với thầy thuốc gia đình của mình.”
Nguy cơ sẩy thai trong tam cá nguyệt đầu được giảm nhiều khi bệnh nhân được kiểm soát tốt bởi điều trị. Đối với những tam ca nguyệt tiếp theo, các sẩy thai chủ yếu là do một syndrome antiphospholipide, mà nguy cơ có thể được thu giảm bởi cho đều đặn một thuốc chống đông. Đối với những bệnh nhân này, đồ dùng là một thai nghén có nguy cơ những một sự theo dõi gia tăng cho phép vừa giảm nguy cơ với một điều trị được kiểm tra thường trực nhưng cũng vừa cho phép một can thiệp nhanh hơn nếu có một vấn đề xuất hiện.
Bệnh nhân thường sinh sớm, do cao huyết áp của người mẹ, phải được theo dõi và có thể cần mổ césarienne để tránh cho em bé mọi stress.
Vẫn còn một trường hợp trên 20, trong đó khuyên không được có thai. Nhưng trong tất cả các trường hợp, tốt hơn là “hoạch định” thai nghén và chọn một lúc trong đó căn bệnh không hoạt động. Thầy thuốc sẽ xác lập điều trị tốt nhất để kiểm soát các đợt bộc phát và tiên đoán tiến triển của bệnh trong thai nghén nếu vài loại thuốc không tương hợp với thai nghén này. Được săn sóc ân cần, những phụ nữ trẻ bị bệnh lupus như thế có thể dự kiến thai nghén một cách an lành.
(LE FIGARO 21/1/2017)

4/ LUPUS : ĐIỀU TRỊ ĐẦY HỨA HẸN
Mặc dầu không có thuốc vĩnh viễn chống lại lupus, nhưng điều trị các triệu chúng đã tiến triển nhiều. Điều trị gồm có nhiều yếu tố để làm giảm viêm và điều biến đáp ứng miễn dịch, từ những thuốc chống viêm non-stéroide đơn giản đến những thuốc làm suy giảm miễn dịch mạnh với mục tiêu sử dụng những liều nhỏ nhất có thể được (nhất là trong trường hợp vcortisone). Một trong những điều trị hứa hẹn nhất chống lupus, Lupuzor, vừa đi vào thử nghiệm giai đoạn III ở Hoa Kỳ và châu Âu. ” Chúng tôi đã khám phá do tình cờ trong lúc trắc nghiệm hàng chục peptide lên chuột ; loại thuốc này không hề được nhắm đến bởi nghiên cứu điều trị chống lupus, GS Sylviane Muller, giám đốc nghiên cứu CNRS ở CHU de Strasbourg đã nhớ lại như vậy. Lupus của những con chuột đã nhận thuốc này bị chậm lại, đôi khi đến độ không phát ra trong khi các con chuột này được hoạch định để bị bệnh này “. Những thử nghiệm đầu tiên ở người dường như hứa hẹn những tác dụng tương tự đối với một điều trị có vẻ không có tác dụng phụ, dễ thực hiện và ít tốn kém.
(LE FIGARO 21/1/2017)

5/ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MORPHINIQUES
Sự tiêu thụ các opiacés và opioides gia tăng. GS Maurice Dematteis, chef du service d’addictologie của CHU Grenoble Alpes, bình luận những quy tắc châu Âu về điều trị trong trường hợp nghiện.
Hỏi : Ta gọi là gì những produits morphiniques (PM) ?
GS Maurice Dematteis : Đó là một họ những chất, bao gồm những sản phẩm phát xuất từ thuốc phiện (opium), những opiacés (morphine, codéine, héroine), và những thuốc tổng hợp (tramadol, fentanyl), các opioides. Các produit morphinique mạnh ít hay nhiều tùy theo năng lực của chúng kích hoạt các thụ thể tế bào mà chúng gắn vào để tác động, nhất là chống đau. Phần lớn có một tác dụng gia tăng với liều lượng, đến độ có thể gây tử vong do ngừng hô hấp. Vài chất như buprénorphine, mà tác dụng đạt mức cao nhất ngay cả với liều tăng cao, có một profil an toàn tốt.
Hỏi : Sự tiêu thụ những produit morphinique gia tăng mạnh ở Hoa Kỳ. Còn ở Pháp ?
GS Maurice Dematteis : Hoa Kỳ là nước sử dụng produits morphiniques (PM) nhiều nhất trên thế giới, với 2 triệu người lạm dụng hay phụ thuộc PM giảm đau, 586.000 người tiêu thụ héroine và 42.000 tử vong hàng năm do overdose (OVD). Ở Pháp, hơn 10 triệu người bị đau mãn tính, điều này là động cơ của 43% những khám bệnh ở thầy thuốc đa khoa. Trong 10 năm, khả năng tiếp cận PM và sự tầm thường hóa chúng làm dễ một sự sử dụng lớn hơn những chất giảm đau mạnh (+74%), chủ yếu đối với những đau không phải ung thư. Những nhập viện vì OVD (+ 128%) và những tử vong liên kết (+ 161%) đã gia tăng một cách song hành.
Hỏi : Những quần thể bị ảnh hưởng bởi những chứng nghiện này là như nhau ?
GS Maurice Dematteis : Những produits morphiniques bất hợp pháp liên quan chủ yếu những người trẻ ; những PM giảm đau ở cả hai giới, nhưng ở một lứa tuổi cao hơn. Sự sử dụng ban đầu có thể để giải trí (tìm kiếm cảm giác khoái trá), giải ưu (quản lý những khó khăn) hay thuần chống đau và sau đó được tiếp tục để quản lý một tình trạng lo âu, khó ngủ, ngay cả không đau. Dầu PM là gì, sự nghiện phát triển qua cùng những cơ chế. Tùy theo khả năng tiếp cận, ta có thể đi từ một PM này đến một PM khác, hay bù sự cai thuốc bằng những sản phẩm khác (rượu, benzodiazépines).
Hỏi : Cơ chế nào tạo và duy trì một chứng nghiện ? Và những biểu hiện của nó là gì ?
GS Maurice Dematteis : Chỉ có vài người phát triển một chứng nghiện. Những hiệu quả có được bởi PM chỉ tạm thời và khiến phải tiêu thụ lại một lần nữa. Sự lặp lại này gây nên một sự biến đổi của các circuits não về récompense, cảm xúc, hành vi và automatisme. Liên kết vào đó là sự phát triển của một sự quen thuốc khiến gia tăng những liều lượng để tìm lại những hiệu quả ban đầu và tránh những dấu hiệu cai thuốc (đau, stress, ỉa chảy). Sự lo âu, những triệu chứng trầm cảm và sự mất ngủ xuất hiện, và người nghiện mất mọi sự kiểm soát. Nhu cầu sản phẩm morphinique trở nên thúc bách, khẩn thiết (craving) và ưu tiên đối với mọi chuyện còn lại. Nguy hiểm là OVD và chết do ngừng hô hấp. Ở Pháp, PM được kê đơn giết 2,5 lần hơn héroine. Naloxone là một chất đối kháng chống nguy cơ OVD, có thể tiếp cận đối với mọi người sử dụng PM.
Hỏi : Những điều trị như thế nào và những quy tắc điều trị của châu Âu, vừa được công bố mới đây ?
GS Maurice Dematteis : Mặc dầu rất nổi tiếng, những cure de désintoxication không được khuyến nghị bởi vì sự loại bỏ đột ngột của tác nhân gây nghiện gây nên một nguy cơ tái phát tăng cao (trên 90%) với OVD chết người. Có thể thu giảm dần đối với những PM antalgique. Nếu không, những opioides de substitution hiệu quả hơn. Do tác dụng kéo dài của chúng, chúng ổn định bệnh nhân bằng cách kiểm soát những triệu chứng khác nhau (manque, craving, lo âu …). Được kê đơn dài lâu nếu cần, với một liều tùy theo từng cá thể và được liên kết với điều trị những tình trạng dễ bị thương tổn (vulnérabilité) tâm thần, xã hội hay khác, chúng nhằm tái lập autonomie và chất lượng sống của bệnh nhân. Nhờ profil de sécurité cao, buprénorphine (đơn độc hay với naloxone tiêm tĩnh mạch) chiếm vị trí hàng đầu. Méthadone được dành cho những trường hợp phức tạp hay những người kê đơn có kinh nghiệm. Các khuyến nghị châu Âu điều hòa những chiến lược này để làm dễ, trong tất cả các nước của Liên hiệp châu Âu, sự điều trị những người phụ thuộc. Trên phương diện phòng ngừa, thông tin những nguy cơ liên kết với sự lạm dụng PM antalgiques là thiết yếu.
(PARIS MATCH 8/3-14/3/2018)

6/ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIỂU : CHẲNG BAO LÂU CÓ MỘT VACCIN.
Những dạng tái phát, từ 10 đến 15% những trường hợp (ít nhất hai đợt mỗi tuần) không có giải pháp nào khác hơn là một phòng ngừa dài lâu bằng các kháng sinh, với một nguy cơ đề kháng và mất cân bằng của khuẩn chí ruột. Vả lại, tính hiệu quả của jus de canneberge trong bối cảnh này không được chứng minh. Một vaccin (Uromune), được hiệu chính ở Tây Ban Nha, vừa được trắc nghiệm bởi một équipe britanique trên 75 phụ nữ dùng kháng sinh phòng ngừa thất bại. Vaccin này chứa một huyền dịch (suspension) 4 vi khuẩn thường liên quan nhất (trong đó colibacille), được cho dưới dạng bất hoạt. Được phun dưới lưỡi mỗi ngày trong 3 tháng, 78% những phụ nữ được điều trị đã không có đợt nhiễm trùng trong 12 tháng theo dõi !
(PARIS MATCH 15-21/2/2018)

7/ RƯỢU, MỘT VẤN ĐỀ Y TẾ CÔNG CÔNG BỊ ĐÁNH GIÁ THẤP.
Sau cuộc luận chiến mới đây về những nguy hiểm của rượu vang, các chuyên gia lấy làm tiếc vì thiếu thông tin về những nguy cơ liên kết với sự tiêu thụ rượu.PREVENTION. ” Rượu vang (vin) là một loại rượu như một loại khác ” Lúc phát biểu dieu hien nhien này, bà Agnès Buzyn, bộ trưởng y tế đã ném một quả bom cháy trên place publique. Ngay tức khắc, nhiều thành viên của chính phủ và không phải là ít, đã bước lên chiến lũy để bảo vệ rượu vang : một di sản văn hóa, một truyền thống, một identité nationale. Tổng thống của nước Cộng Hòa chính ông, ở Salon de l’agriculture, đã nhấn mạnh rằng tai ương thật sự không phải là rượu vang, mà là ” binge-drinking” của các thanh niên khi họ say sưa với rượu mạnh hay bière.Sự phản đối tập thể này tức thì đã gây nên nng contre-feux của những người hành nghề y tế.Những người này đã nhắc lại rằng ” trên quan điểm gan, rượu vang, đó đúng là cồn “. Bởi vì dầu ta uống một nửa bia (25 cl) 5 độ, một ly rượu vang (10 cl) 12 độ hay một ly whisky (3cl) 40 độ, lượng éthanol uống vào là như nhau. Thế mà, về mặt độc tính, chính éthanol chịu trách nhiệm, chứ không phải đồ uống ta sử dụng.
Thế mà rượu vang chiếm 58% sự tiêu thụ rượu ở Pháp, như Cour des comptes đã nhắc lại điều đó năm 2016. ” Thế mà các thanh niên cũng tiêu thụ rượu vang”, giáo sư Amine Benyamina, chủ tịch của Fédération française d’addictologie, đã nói rõ như vậy.
Và trên quan điểm khoa học, những sự kiện là đó, không thể bàn cãi : rượu vang là một vấn đề y tế công cộng quan trọng. ” Một công trình nghiên cứu năm 2015 của Pháp đã chứng minh rằng rượu là nguyên nhân đâu tiên của nhập viện “, giáo sư Mickael Naasila, chủ tịch của Société française d’alcoologie đã nhấn mạnh như vậy. Một nguy cơ y tế không chỉ liên hệ 2 triệu người phụ thuộc hay 5 triệu người có một tiêu thụ quá cao. Mọi sự tiêu thụ rượu đều có một nguy cơ.Một công trình nghiên cứu mới đây đã chứng minh rằng sự tiêu thụ một ly rượu mỗi ngày gia tăng nguy cơ ung thư vú 10% ! Một công trình nghiên cứu của Pháp gợi ý rằng một nguy cơ surmortalité xuất hiện với sự tiêu thụ 1 đến 1,5 ly mỗi ngày. ” Chúng ta cũng phải nhắc lại những tác hại của chứng nghiện rượu thụ động (alcoolisme passif) (những tác dụng lên những người chung quanh và trẻ em). Rượu làm cho trở nên hung bạo và là nguồn gốc của những bạo lực gia đình, nhưng cũng của những hãm hiếp và tai nạn giao thông. Không quên trường hợp của những người mẹ tiêu thụ rượu mà không biết rằng thai nghén của họ đã bắt đầu, gây nên syndrome d’alcoolisme foetal, nguyên nhân thứ nhất của chậm phát triển tâm thần có thể tránh được “, BS Alain Braillon, thầy thuốc thuộc đơn vị alcoologie của CHU đ’Amiens đã nhắc lại như vậy.
Tuy vậy, không phải các chuyên gia lên lớp đạo đức cho dân chúng hay cấm họ uống rượu vang. ” Điều mà chúng tôi muốn, đó là thông tin cho công chúng. Sau đó, mọi người tự do làm điều mà mình muốn. Nhưng chúng tôi đã không nhất trí với nhau. Khía cạnh khoa học bị che dấu một cách hệ thống và ngay khi chúng tôi nói y khoa, người ta đứng chúng tôi, những nhà vệ sinh học đối lại với những épicurien, những người biết uống “, giáo sư Mickael Naassila đã nhấn mạnh như vậy.
Đối với Société française d’alcoologie và toàn thể những tác giả của phòng ngừa, hôm nay đó là thay thế lời cảnh cáo y tế hiện nay (lạm dụng rượu là nguy hiểm đối với sức khỏe) bằng một thông điệp nói rằng mọi tiêu thụ rượu là nguy hiểm đối với sức khỏe. Đó cũng là xúc tiến những khuyến nghị mới về tiêu thụ rượu. Thay vì 3 ly mỗi ngày đối với những người đàn ông và 2 ly đối với các phụ nữ, những chuyên viên từ nay chủ trương 10 ly tối đa mỗi tuần và 2 ngày kiêng rượu. ” Chúng ta không ở đó để phá hủy filière vinicole, nhưng để phòng ngừa. Trách nhiệm của chúng ta là bảo vệ những người dễ thương tổn nhất”, giáo sư Amine Benyamina đã nhấn mạnh như vậy.
Hôm nay, các thầy thuốc có thể khiến người ta nghe những luận cứ của mình không ? Bởi vì, ngoài những lobbys des alcooliers, chính một état d’esprit rất Pháp mà họ phải làm tiến triển. Như GS Michel Lejoyeux, addictologue ở bệnh viện Bichat ở Paris đã nhắc lại điều đó : ” Vào một buổi dạ hội ở Pháp, bạn sẽ luôn luôn tự bào chữa không uống hơn là uống quá nhiều.”
(LE FIGARO 12/3/2018)

8/ MỘT LY RƯỢU VANG MỖI NGÀY CÓ THỂ GIA TĂNG NHỮNG NGUY CƠ UNG THƯ
Dĩ nhiên ta không mong muốn điều đó cho những kẻ tuyên bố chỉ uống một hay hai ly rượu vang mỗi ngày, những trái với một định kiến, ngay cả mức tiêu thụ vừa phải này có thể có những hậu quả lên sức khỏe.
Tháng giêng vừa qua, ủy ban phòng ngừa các ung thư của Hiệp hội ung thư học Hoa Kỳ (Asco) đã duyệt xét mối liên hệ giữa rượu và ung thư. ” Một cách rõ ràng, những nguy cơ lớn nhất được tập trung vào những loại người uống nhiều hay vừa phải, ta có thể đọc trong Journal of Clinical Oncology. Tuy nhiên, vài nguy cơ ung thư tồn tại ngay cả ở những người tiêu thụ ít “, các tác giả đã thêm vào như vậy. Vậy mọi người làm sự lựa chọn của mình đồng thời tìm hiểu một cách đúng đắn những nguy cơ đối với sức khỏe của mình.
Asco chỉ ra một nguy cơ gia tăng với những tiêu thụ thấp, 10 g rượu được tiêu thụ mỗi ngày, đối với những ung thư thực quản (+30%), khẩu hầu (+17%) hay vú (+5%). Đối với ung thư vú, các tác giả định rõ rằng sự gia tăng là 5% trước mãn kinh và 9% sau mãn kinh. Ngược lại, các nhà nghiên cứu không tìm thấy gia tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng, của gan hay thanh quản, ở những mức tiêu thu thập này.
Chúng ta hãy nhắc lại rằng các thầy thuốc tính đến những thể tích để phân biệt những rượu mạnh ít hay nhiều và tiêu chuẩn hóa tác động của lượng rượu cần chuyển hóa đối với cơ thể. Như thế 10% rượu tương ứng với 2,5 cl pastis hay whisky (40 độ) nhưng cũng 25 cl bia 5 độ (một nửa) hay 10 cl rượu vang 12 độ (verre ballon)
ETUDES BIASESES
Nếu rượu vang đúng là một loại rượu như một loại rượu khác trên quan điểm gan, như bộ trưởng y tế, Agnès Buzyn đã nói như thế, do đó đã trở thành nổi tiếng.
GS Tim Stockwell, giám đốc của centre de recherche sur les addictions à Victoria (Canada) vào năm 2015 đã giải thích với các đồng nghiệp Hoa Kỳ và Úc rằng phần lớn các công trình nghiên cứu, trong quá khứ, đã cho thấy lợi ích của một sự tiêu thụ vừa phải, là sai lệch. Groupe de référence trong những công trình nghiên cứu này, những người kiêng uống (abstinents), gồm cả những người đã từng uống hay những người tránh uống vì lý do sức khỏe. Hai yếu tố làm sai lệch các kết quả.
(LE FIGARO 12/3/2018)

9/ ĐƯỜNG TINH CHẾ : MỘT CHẤT ĐỘC
Đối với OMS, sự tiêu thụ những đường này (glucose, fructose, saccharose…) tự do hay dấu diếm, phải được giới hạn 10% của cung cấp năng lượng hàng ngày, so với hôm nay 20% ở châu Âu và 35 đến 40% ở Hoa Kỳ ! Ngay cả một tối đa 10% sẽ được mong muốn, trên quy mô thế giới, bởi vì chúng tạo điều kiện cho những dịch đái đường, béo phì và những bệnh tim mạch. Chúng là một vấn đề y tế công cộng thật sự. Những khuyến nghị của OMS không liên quan đến những đường chậm hay phức hợp của các ngũ cốc, hay những đường hiện diện một cách tự nhiên trong các trái cây và rau, nhưng là những glucide được tinh chế của các thức ăn công nghiệp, không có một giá trị dinh dưỡng nào, chỉ mang lại những calories, biến hóa thành mỡ và có mặt bao trùm trong hơn 200 sản phẩm thông thường (pizza, merguez, cà rốt nạo, ketchup, những món ăn làm sẵn, soda…). Đọc kỹ các nhãn hiệu.
(PARIS MATCH 25-31/1/2018)

10/ PHÁT HIỆN SỚM 8 UNG THƯ
Những tiến bộ lớn đã được thực hiện để phát hiện, ngay trước khi xuất hiện những dấu hiệu lâm sàng và X quang có thể thấy được, những mảnh cực nhỏ ADN tumoral, được phóng thích trong tuần hoàn máu bởi những tế bào ác tính đang chết, hiện tượng hiện hữu trong tất cả các ung thư ngay cả ở giai đoạn đầu của sự tạo thành chúng, vào một giai đoạn mà chúng có thể được chữa lành một cách dễ dàng. Các nhà nghiên cứu của đại học Johns Hopkins ở Baltimore (Hoa Kỳ) đã hiệu chính một trắc nghiệm, cancerSEEK. Trong một công trình nghiên cứu được thực hiện trên 1855 người (những bệnh nhân so với những người chứng), 8 ung thư trong số những ung thư thường gặp nhất (buồng trứng, gan, tụy tạng, thực quản, phổi, gan, dạ dày, vú) đã có thể được phát hiện sau một lấy máu đơn giản với một tính nhạy cảm và đặc hiệu tốt. Trong 80% những trường hợp trắc nghiệm này đã cho phép làm giảm nguồn gốc khả dĩ của ung thư khởi đầu (và không thấy được) ở chỉ hai cơ quan.
(PARIS MATCH 22/3-28/3/2018)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(26/3/2018)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

1 Response to Thời sự y học số 465 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 624 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s