CHUYÊN ĐỀ UNG THƯ
PHẦN I
1/ CÓ NÊN ĐIỀU TRA PHÁT HIỆN UNG THƯ MỘT CÁCH HỆ THỐNG ?
Professeur Jacques Rouessé
Oncologue médical
Membre de l’Académie nationale de médecine
Một ung thư càng được phát hiện sớm, thì nó có thể được điều trị dễ dàng hơn ; một thương tổn càng ít có thể trở thành ung thư hơn, thì ta tránh sự xuất hiện của một ung thư càng chắc hơn. Nhưng ta không bao giờ biết trước tiềm năng tiến triển (potentiel évolutif) thật sự của thương tổn được phát hiện là tiềm năng nào, mặc dầu ta có những dữ kiện thống kê chính xác. Chính vì vậy, sự điều tra phát hiện (dépistage) đôi khi là một con dao hai lưỡi vì, mặc dầu xuất phát từ một mục đích phòng ngừa (intention préventive) tốt, nhưng cũng có thể dẫn đến những can thiệp vô ích và gây nên sự lo ngại vô ích.
Sự điều tra phát hiện nhằm vào những người có sức khoẻ tốt, không kêu ca gì cả, nhưng có thể được xem như có một nguy cơ phát triển một ung thư hay một thương tổn tiền ung thư (lésion précancéreuse) do tuổi tác hay do những tiền sử cá nhân và gia đình của họ. Vậy đó không phải là thực hiện một chẩn đoán, mà là phát hiện, bằng một thăm khám thích hợp, sự xuất hiện của một dấu hiệu báo động. “Screening” này cho phép chọn lọc, như xuyên qua một “tamis”, những người, mà ở họ test de dépistage phát hiện một xác suất phát ra một ung thư nhỏ quan trọng hơn. Nếu là như vậy, thầy thuốc thực hiện một démarche diagnostique nhằm tìm kiếm một thương tổn chịu trách nhiệm sự dương tính của trắc nghiệm.Nhưng không một trắc nghiệm nào là đáng tin cậy 100% : có thể có điều mà ta gọi là những “dương tính giả” (faux positif) hay những “âm tính giả”. Như thế, trên 10.000 chụp tuyến vú (mammographie), trung bình 1000 phụ nữ được phát hiện “dương tính” ; chỉ 100 người trong số họ sẽ có một sinh thiết, mà nhiên hậu trong 50 trường hợp thì ra rằng bất thường X quang không tương ứng với một ung thư. Vậy, chẳng ích lợi gì mà phải lo lắng quá nhanh, nhưng phải luôn luôn cảnh giác và không do dự lập lại thăm dò một cách đều đặn.
Việc điều tra phát hiện chỉ được biện minh nếu ta có một điều trị mà ta biết rằng nó sẽ càng có hiệu quả khi thương tổn càng nhỏ, thậm chí chưa phải là ung thư. Trắc nghiệm được đề nghị cũng phải đơn giản, trung thực và không nguy hiểm. Sau cùng, ung thư được tìm kiếm phải thường xảy ra đủ để không buộc một số lượng lớn người chịu một trắc nghiệm rất có thể là vô ích. Nhưng tất cả cũng tùy thuộc vào tính chất của ung thư và xác suất của nguy cơ, tùy theo lứa tuổi, những tiền sử, nhưng cũng tùy theo tình trạng sức khoe và những hành vi. Chứng béo phì, sự nghiện thuốc lá và nghiện rượu cũng quan trọng như sự hiện diện của những ung thư trong gia đình. Ngược lại, chẳng ích lợi gì khi đề nghị một điều tra phát hiện ở một người trên 90 tuổi, ở họ có thể ta sẽ khám phá một ung thư nhỏ, nhưng sẽ không tiến triển trước 15 năm !
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẢM BẢO ĐỐI VỚI UNG THƯ VÚ
Nếu ta trừ ra loại đặc biệt là những dạng gia đình (formes familiales), chỉ những điều tra phát hiện ung thư cổ tử cung, vú, đại tràng và trực tràng là đã chứng tỏ lợi ích của chúng. Việc điều tra phát hiện các mélanome thuộc về một chẩn đoán sớm hơn là một dépistage theo đúng nghĩa của nó.
Cùng với sự giảm số những trường hợp thai nghén và sự cải thiện vệ sinh, frottis đã cho phép, trong những nước mà nó được thực hiện, một sự giảm ngoạn mục của tỷ lệ tử vong bởi ung thư cổ tử cung. Được khuyến nghị ở những phụ nữ từ 25 đến 65 tuổi, và được thực hành một cách đều đặn, frottis cho phép những thầy thuốc phụ khoa phát hiện những tế bào bất thường một cách hoàn toàn không đau.Đối với vú, hôm nay mammographie cho phép phát hiện những bất thường vài milimet. Thăm dò này, được thực hiện mỗi 2 năm, ở những phụ nữ từ 50 đến 75 tuổi không tiền sử vú cá nhân và gia đình, đã làm giảm một cách đáng kể tỷ lệ tử vong do chẩn đoán, và do đó điều trị, sớm hơn. Ở Pháp, Assurance-maladie và nhà nước đề nghị một dépistage organisé miễn phí, có chất lượng nhờ những thầy thuốc và những kỹ thuật viên X quang được đào tạo tốt, mà các kết quả được đảm bảo bằng một double lecture, với dụng cụ được kiểm soát nghiêm túc và bệnh nhân chỉ chịu một liều phóng xạ thấp.
Các ung thư đại tràng và trực tràng cũng phụ thuộc một điều tra phát hiện hệ thống. Một dépistage, được tổ chức bởi Assurance-maladie và Nhà nước, được đề nghị cho mọi người từ 50 đến 75 tuổi không có tiền sử bệnh lý tiêu hóa cá nhân hay gia đình. Nó phải được thực hiện một lần mỗi hai năm, và, trong trường hợp kết quả dương tính, ta thực hiện tức thời một colonoscopie.
Thăm dò này được đề nghị mặc nhiên cho những người được xem là có nguy cơ cao tùy theo số những trường hợp của những ung thư này trong gia đình, tùy theo tuổi mà chúng xuất hiện và tùy theo vài bệnh gia đình tạo thuận. Trong trường hợp này, đó là một xử trí cá thể hóa (prise en charge personnalisée), với một dépistage spécifique được thực hiện theo những khuyến nghị của thầy thuốc điều trị, cộng tác với những équipe chuyên môn.
Sau cùng, mélanome, một trong những ung thư ác tính nhất và càng ngày càng thường gặp, có thể được chẩn đoán kịp thời bằng một sự theo dõi cá nhân đơn thuần. Nếu bạn chứng thực rằng một nốt ruồi thay đổi hình dạng hay tiến triển một cách đáng nghi ngờ, phải tức thời đến khám thầy thuốc gia đình hay một thầy thuốc bệnh ngoài da.
Công tác điều tra phát hiện của ung thư tiền liệt tuyến không được nhất trí, mặc dầu, sau 50 tuổi, khám trực tràng hay đơn giản hơn, sự định lượng PSA (Prostatic Specific Antigen) trong máu đã trở thành một thăm dò thường quy. Trong tình hình các kiến thức của chúng ta hiện nay, khó phân biệt một cách rõ rệt những ung thư sẽ trở nên ác tính với những ung thư vẫn “không gây đau”, như những ung thư mà ta thường tìm thấy, lúc giải phẫu tử thi, ở những bệnh nhân già chết vì một vấn đề khác…Vậy điều tra phát hiện chúng có nguy cơ đưa đến những điều trị không những vô ích mà còn khả dĩ gây những tác dụng phụ.
Ung thư tiền liệt tuyến là thí dụ tiêu biểu của sự điều tra phát hiện cần phải có sự thảo luận giữa bệnh nhân với thầy thuốc điều trị. Thầy thuốc điều trị này phải đả thông, cân nhắc những ưu điểm và những bất tiện, tùy theo tuổi tác, tình trạng tổng quát, những tiền sử cá nhân và gia đình.
(LE FIGARO 8/12/2014)
2/ PHẢI CHĂNG VỚI ĐIỀU TRA PHÁT HIỆN UNG THƯ, TA CHỐNG LẠI NÓ TỐT NHẤT ?
Professeur Jacques Rouessé
Oncologue médical
Membre de l’Académie nationale de médecine
Công tác điều tra phát hiện (dépistage) là một vũ khí được công nhận chống ung thư. Nhưng đó không phải là vũ khí duy nhất, và hôm nay sự việc phát hiện một ung thư để làm giảm những hậu quả của tai ương này là không đủ, bởi vì, ngoại trừ ung thư cổ tử cung, ta không loại bỏ nó bằng điều tra phát hiện.
Một điều tra phát hiện không phải là một chẩn đoán sớm. Nó nhằm vào những người có sức khoẻ tốt, không kêu ca gì cả, không có một triệu chứng nào, bằng cách đề nghị với họ “một trắc nghiệm”. Trong trường hợp trắc nghiệm dương tính, khám lâm sàng, xét nghiệm hay chụp hình ảnh được đề nghị, để cho phép xác nhận một chẩn đoán khả dĩ dẫn đến một điều trị. Để sự điều tra phát hiện có một ý nghĩa, điều trị này phải hiệu quả ; để sự điều tra phát hiện tỏ ra thực tế, căn bệnh được tìm kiếm phải liên quan một số lượng đủ những người trong quần thể được phát hiện.
Trắc nghiệm cũng phải đồng thời đơn giản và trung thực (những dương tính giả), cũng không được làm an lòng một cách nhầm lẫn (âm tính giả) và nhất là tránh điều trị những thương tổn vô hại. Sau cùng, phải có thể đánh giá tính hiệu quả của nó, tiêu chuẩn quan trọng là, trong trường hợp ung thư, giảm tỷ lệ tử vong hay giảm rõ rệt tỷ lệ bệnh.
Công tác điều tra phát hiện là một démarche de santé publique, được đề nghị bởi giới y tế theo một nhịp độ biến thiên tùy theo vị tri của các ung thư ở một quần thể được chọn lọc do tuổi tác và giới tính của nó, những tiêu chuẩn được lựa chọn theo nguy cơ lớn nhất bị ung thư muốn nói đến. Sự điều tra phát hiện có tổ chức (dépistage organisé) này đi đôi với một kiểm soát chất lượng của toàn bộ démarche, điều này làm chúng trở thành một công cụ hiệu quả để thực hiện một chính sách y tế công cộng. Những bệnh nhân liên hệ phải có thể được giải thích bởi thầy thuốc gia đình của họ những lý do và, nếu cần, những phương thức của sự điều tra phát hiện này.
Dù sao đi nữa, phải hiểu rõ rằng một điều tra phát hiện không cho phép chẩn đoán một ung thư nhưng chỉ xác định một xác suất quan trọng phát triển hay đã có một ung thư. Chính vì vậy, các Anglo-Saxons thường nói là “screening”, được dịch ra tiếng Pháp là “tamisage” (sàng lọc). Những dạng truyền theo di truyền là đối tượng của một theo dõi gia đình đặc biệt..không thuộc vào dépistage organisé. Chính vì vậy sự điều tra phát hiện, được gọi lầm là “cá nhân” (dépistage individuel), không nằm trong định nghĩa này. Thật vậy, đối với bệnh nhân muon được điều tra phát hiện mà không có một triệu chứng nào, thầy thuốc chỉ khuyên tham gia những dépistage organisés. Và, dẫu sao đi nữa, không thể kể những dépistage này vào trong tỷ lệ tử vong cũng như tỷ lệ mắc bệnh ung thư được nói đến !
Tại sao phải điều tra phát hiện ung thư ? Chỉ đơn giản bởi vì nói chung một ung thư càng tiến triển, càng khó điều trị và chữa lành. Vậy tốt hơn phát hiện nó càng sớm càng tốt, chừng nào ung thư được giới hạn trong cơ quan nguyên thủy. Nhưng vài ung thư tiềm tàng, không bao giờ tiến triển, thậm chí biến mất…Thí dụ, ở trẻ em, một ung thư tương đối hiếm, neuroblastome, thoái triển một cách ngẫu nhiên trong 1/3 trường hợp. Ngoài ra, phần lớn các sinh thiết, được thực hiện ở những người bị chết vì một nguyên nhân khác với ung thư, phát hiện rằng, bệnh nhân càng già, ta càng tìm thấy rằng bệnh nhân này mang những ung thư đã không tiến triên.
Ngược lại, sự điều tra phát hiện, cho phép chẩn đoán và điều trị vài thương tổn được xem như “tiền ung thư”, đã chứng tỏ một cách không cần bàn cãi lợi ích của nó trong những ung thư cổ tử cung và những ung thư đại-trực tràng.
Những ung thư của đại tràng và trực tràng là đối tượng của sự điều tra phát hiện được tổ chức từ 2009 đối với lứa tuổi từ 50 đến 74.Sự điều tra phát hiện ung thư và những thường tổn tiền ung thư của cổ tử cung được đề nghị giữa 25 và 65 tuổi. Được thực hiện rất rộng rãi từ nhiều năm, nó đã góp phần rất nhiều trong việc làm giảm những ung thư này, điều này đã khiến giới hữu trách y tế đề nghị cải thiện sự tổ chức năm 2018.
Nhưng, trong hai trường hợp này, sự điều tra phát hiện cho phép une double prévention : trước và vào lúc bắt đầu của tiến triển của một ung thư. Điều này không phải là trường hợp đối với ung thư vú, mà sự điều tra phát hiện, được tổ chức ở Pháp từ năm 2004, bị tranh cãi. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng nó đã cho phép giảm tỷ lệ tử vong bởi ung thư vú, từ 20 đến 30%, ở những phụ nữ thực hiện điều tra phát hiện một cách đều đặn, nhưng với cái giá bao nhiêu điều trị vô ích ? Cuộc tranh luận được bỏ ngõ ; tuy nhiên, dầu thế nào đi nữa, sự thiết đặt của chương trình này đã cho phép, một mặt, các phụ nữ được nhạy cảm hóa và cảnh giác hơn ; mặt khác, những phương pháp X quang chẩn đoán rõ rệt được cải thiện. Không có một ung thư nào khác là đối tượng của một dépistage organisé, hoặc là bởi vì chúng ta không có trắc nghiệm đủ trung thực (qua dương tính giả hay âm tính giả), hoặc bởi vì chúng quá hiếm.
Vậy ta không thể chỉ dựa vào công tác điều tra phát hiện để phòng ngừa những ung thư hay làm giảm những hậu quả của chúng. Phải phát triển sự phòng ngừa nguyên phát (prévention primaire) cho phép ngăn cản sự xuất hiện của một căn bệnh, hoặc bằng cách hủy bỏ những thương tổn có thể dẫn đến điều đó, hoặc và nhất là tránh những tiếp xúc với những tác nhân nguyên nhân của căn bệnh. Cuộc chiến chống thuốc lá là thí dụ tốt nhất.
(LE FIGARO 20/2/2017)
3/ UNG THƯ VÀ TÌNH CẢNH KHỐN KHỔ TÂM LÝ
Psilocybine là một alcaloide hiện diện trong vài nấm gây ảo giác (champignons hallucinogène). Nó tác động lên sérotonine, một chất dẫn truyền thần kinh của não, có chức năng điều biến khí chất và sự lo âu. Hai công trình nghiên cứu Hoa Kỳ cho thấy rằng chất này, khi được cho với liều thấp và được kiểm soát, có thể giảm chứng trầm cảm của những người bị một ung thư. Một thử nghiệm, được thực hiện ở Centre médical de Langone (đại học Nữu Ước) và sau khi được liên bang cho phép (psilocybine không hợp pháp), đã làm thuyên giảm 80%, trong hơn 6 tháng (với ít tác dụng phụ), sau một liều duy nhất, sự lo âu của 29 người tham gia, được điều trị vì những ung thư vú, máu hay ống tiêu hóa. Tất cả đều bị một tình trạng khốn khổ tâm lý nặng. Một công trình nghiên cứu tương tự, được thực hiện ở Johns Hopkins Hospital (Maryland) ở 51 người, đã cho cùng những tác dụng dương tính. Nếu những công trình nghiên cứu đang được tiến hành xác nhận những kết quả này, chúng phải đưa đến sự thương mãi hóa một sản phẩm an toàn.
(PARIS MATCH 5/1-11/1/2017)
4/ LIỆU PHÁP NHẮM ĐÍCH VÀ UNG THƯ
GS David Khayat, trưởng khoa ung thư học của bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris lập một tình trạng hiện trường về những tiến bộ được thực hiện.
Hỏi : Hiện nay tần số của các ung thư ở Pháp ?
GS David Khayat : Ta thống kê 350.000 trường hợp mới mỗi năm. Một số lượng đã tăng gấp đôi trong 20 năm. Mặc dầu thế, tỷ lệ tử vong hàng năm vẫn ổn định từ hơn 10 năm (50.000). Những ung thư thường gặp nhất là những ung thư tiền liệt tuyến và phổi ở đàn ông, những ung thư vú và đại tràng ở phụ nữ. Theo công trình nghiên cứu mới đây của Viện ung thư quốc gia (Inca), thời gian của những thuyên giảm đã gia tăng một cách rất quan trọng trong 10 năm qua. Một tiến bộ do plan cancer, từ 2008, chỉ cho phép những khoa chuyên môn điều trị những bệnh nhân bị bệnh.
Hỏi : Những điều trị mà chúng ta hiện có để chống lại ung thư ?
GS David Khayat : Chúng ta có ngoại khoa, xạ trị (radiothérapie), hóa trị (chimiothérapie) và hormonothérapie. Trong những năm qua, hai vũ khí mới đã tăng cường arsenal thérapeutique của chúng ta : miễn dịch liệu pháp (immunothérapie) và những liệu pháp nhắm đích (thérapie ciblée) đã làm đảo lộn hoàn toàn tiên lượng của vài ung thư.
Hỏi : Tác dụng của một liệu pháp nhắm đích là gì ?
GS David Khayat : Điều trị được thực hiện với một thuốc có khả năng nhận biết bất thường đặc hiệu đối với vài tế bào ung thư và phá hủy chúng.
Hỏi : Những bất thường đặc hiệu này là gì ?
GS David Khayat : Thường nhất chúng tương ứng với sự biến dị của một gène (bất thường hiện diện trên một nhiễm sắc thể). Ưu điểm lớn của những liệu pháp nhắm đích là chỉ giết những tế bào ung thư mà không làm thương tổn những tế bào lành mạnh, trái với hóa trị. Nhưng chúng có một bất tiện : ta chỉ có thể sử dụng chúng trong những trường hợp mà ta đã thành công nhận diện thụ thể di truyền (récepteur génétique) chịu trách nhiệm quá trình ung thư. Điều này hàm ý tìm kiếm một cách hệ thống sự hiện diện của một biến dị trước khi thực hiện một liệu pháp nhắm đích.
Hỏi : Ta tìm kiếm những bất thường di truyền này như thế nào ?
GS David Khayat : Xuất phát từ những mẫu nghiệm sinh thiết của một khối u. Những trắc nghiệm sinh học phân tử được thực hiện trên những platefomre de séquençage de gènes được phân bố trên toàn nước Pháp. Kết quả, có được sau 2 hay 3 tuần, cho phép thầy thuốc chuyên ung thư thực hiện một điều trị đặc thù.
Hỏi : Những liệu pháp nhắm đích đã góp phần vào sự phát triển của chúng là những liệu pháp nào ?
GS David Khayat : Từ những năm 1990, một đích (cible) đầu tiên đã được khám phá trong vài ung thư vú rất ác tính : một thụ thể, HER2, hiện diện trên tế bào ung thư, gây sự tăng sinh của nó. Một loại thuốc, herceptin, được nhắm một cách đặc hiệu trên thụ thể này để phá hủy nó, đã làm gia tăng 60% tỷ lệ chữa lành. Mới đây, sự phối hợp của herceptin với một anti-HER2, pertuzumab, đã còn cải thiện thêm tiên lượng. Ta đã bước vào một kỷ nguyên mới của liệu pháp nhắm đích, kỷ nguyên của những phối hợp.
Hỏi : Những liệu pháp nhắm đích phải chăng có hiệu quả đối với ung thư máu cũng như đối với những ung thư rắn (tumeurs solides) ?
GS David Khayat : Trong huyết học, sự khám phá thụ thể CD20, hiện diện trên bề mặt của các bạch cầu ung thư, đã đảo lộn những tiên lượng của các lymphome, trước đây rất thường gây tử vong. Hôm nay, một số lớn bệnh nhân được chữa lành.
Hỏi : Phải chăng những liệu pháp nhắm đích hiệu quả đối với những ung thư tiến triển cũng như đối với ung thư khu trú ?
GS David Khayat : Nếu trước hết chúng đã được trắc nghiệm trên những ung thư tiến triển, hôm nay ta sử dụng chúng càng ngày càng thường en première intention trước khi chúng đã di căn.
Hỏi : Hôm nay những ung thư nào có thể được điều trị bằng liệu pháp nhắm đích ?
GS David Khayat : Những ung thư vú, phổi, tiền liệt tuyến, cổ tử cung, của TMH, mélanome ác tính, sarcome. Vì càng ngày càng nhiều đích được khám phá, nên ta sẽ có thể điều trị ngày càng nhiều ung thư hơn. Một cách tổng quát, những liệu pháp này đã cải thiện tỷ lệ thuyên giảm từ 30 đến 50%, tùy theo những ung thư.
Hỏi : Đối với ông, thầy thuốc chuyên về ung thư, tầm quan trọng mà ông gán cho những tiến bộ này là gì ?
GS David Khayat : Những liệu pháp nhắm đích này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong điều trị ung thư, cũng như khám phá hóa trị trong những năm 1950. Sự kiện, nhờ những trắc nghiệm di truyền, có thể nhận diện trước những bệnh nhân khả dĩ phản ứng một cách thuận lợi một liệu pháp cho phép một xác suất hiệu quả cao.
(PARIS MATCH 22/12-28/812/2016)
5/ UNG THƯ THANH QUẢN : PROTHESE THANH QUẢN MỚI
Những ung thư nghiêm trọng của thanh quản dẫn đến phải cắt bỏ nó hoàn toàn. Khi đó bệnh nhân thở qua một lỗ được tạo nên ở đáy cổ, mất khứu giác, cũng như giọng nói, mà bệnh nhân bù bằng khả năng nói bằng thực quản. Từ năm 2012, 6 bệnh nhân đã nhận một prothèse bằng titane nhưng không một bệnh nhân nào đã có thể giữ nó vì lẽ những biến chứng nhiễm trùng. Những nhà nghiên cứu của kíp của GS Christian Debry, trưởng khoa TMH ở CHU Hautepierre de Strasbourg, đã tối ưu hóa prothèse này bằng cách phủ lên bề mặt của nó một film chống vi trùng và chống viêm, có vẻ hiệu quả. Bệnh nhân mang prothèse thanh quản mới này, hiện nay là trường hợp duy nhất, có thể thở bằng miệng và mũi, nói một cách bình thường và đã tìm lại khứu giác.
(PARIS MATCH 9/2-15/2/2017)
6/ UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN
Những con số |
– 71.220 trường hợp mới được chẩn đoán ở Pháp mỗi năm – 128,8 trường hợp đối với 100.000 người đàn ông – 71 tuổi, tuổi trung bình lúc chẩn đoán |
CĂN BỆNH.
Đó là ung thư thường gặp nhất ở đàn ông tại Pháp, nhưng chỉ đứng thứ tư đối với tỷ lệ tử vong.Tuyến của hệ niệu sinh dục nam giới, có kích thước của một hạt dẻ, tiền liệt tuyến nằm dưới bàng quang, trước trực tràng, và siết chặt niệu đạo (urèthre).
Ung thư xuất hiện khi những tế bào tạo thành tiền liệt tuyến bắt đầu phân chia một cách hỗn loạn, dưới ảnh hưởng của androgène, những kích thích tố nam tham gia vào sự tiết của tinh dịch (liquide séminal). Những tế bào bất thường có thể vẫn ở bên trong tuyến, khuếch tán qua lớp vỏ của tuyến này, hay di tản về những phần khác của cơ thể (di căn). Ung thư này vẫn khu trú trong thời gian dài lâu. Chẩn đoán được xác lập bằng khám dưới kinh hiển vi những sinh thiết được hướng dẫn bởi siêu âm.
ĐIỀU TRỊ. Nếu ta nghi ngờ một ung thư tiền liệt tuyến sau một khám trực tràng, một định lượng PSA trong máu cho phép affiner le dépistage.
Khi nồng độ tăng cao, sinh thiết phải thực hiện để xác nhận chẩn đoán và xác định chiến lược điều trị phải theo. Quyết định được thực hiện với sự thống nhất giữa những chuyên gia liên quan khác nhau.
Vì ung thư này thường có tiến triển chậm, nên trong thì đầu, có thể thiết đặt một sự theo dõi bao gồm thực hiện những định lượng đều đặn.
Ngay khi ung thư được xem như ác tính, sự cắt bỏ hoàn toàn tuyến tiền liệt và các túi tinh (vésicule séminale) (prostatectomie totale) được chỉ định. Can thiệp này thường gây nên những tác dụng phụ như són tiểu hay những rối loạn cương.Một kỹ thuật thay thế, curiethérapie cho phép tránh chúng. Curiethérapie nhằm đặt những implant radioactif một cách chính xác trong tiền liệt tuyến. Những implant phóng xạ này phá hủy một cách chính xác những tế bào ung thư trên một vùng có kích thước nhỏ. Nhưng ta không thể dùng nó trong trường hợp ung thư lan rộng. Trong trường hợp này, thích hợp hơn là cần đến radiothérapie externe. Chimiothérapie có thể được thực hiện để điều trị những ung thư di căn đề kháng kích thích tố (hormono-résistant), những đau xương (di căn), hay trong trường hợp altération de l’état général hay bệnh tiến triển nhanh. Cũng có thể nhờ đến hormonothérapie để chống lại tác dụng của một kích thích tố nam, testostérone vì kích thích tố này làm dễ sự tăng trưởng của những tế bào ung thư.
(SCIENCES ET AVENIR 3/2014)
7/ NHỮNG U TIỀN LIỆT TUYẾN: ĐƯỢC PHÁT HIỆN BỞI IRM
Một sinh thiết của tuyến tiền liệt có thể là nguồn của đau đớn, xuất huyết và nhiễm trùng. Nguy cơ cũng là lấy mẫu sinh thiết ở bên cạnh khối u. Để tránh điều đó, các thầy thuốc Anglo-Saxons, với gây mê tổng quát, lấy những mẫu sinh thiết nằm rất sát nhau (mỗi 5 mm). Kỹ thuật này ít được thực hành ở Pháp bởi vì nó làm gia tăng nguy cơ gây những biến chứng. Một công trình nghiên cứu Anh (NHS Foundation Trust de Londres) vừa cho thấy, trong một công trình nghiên cứu trên 740 bệnh nhân, trong đó 5765 người mang một ung thư, rằng chụp hình ảnh tuyến tiền liệt bằng cọng hưởng từ là rất có giá trị dự kiến : nó cho phép phân biệt một cách chính xác những thương tổn hiền tính với ác tính, phát hiện những ung thư ác tính trong 93% những trường hợp, so với chỉ 48% với những sinh thiết chuẩn, và tránh những sinh thiết vô ích, được thực hiện ở một bệnh nhân trên bốn..
(PARIS MATCH 16/2-22/2/2017)
8/ UNG THƯ KHU TRÚ CỦA TIỀN LIỆT TUYẾN : PHUƠNG PHÁP CẮT BỎ BÁN PHẦN (HEMI-ABLATION).
GS Pascal Rischmann, CHU Rangueil (Toulouse) và ủy viên của Académie de chirurgie, chirurgien urologue và oncologue, giải thích kỹ thuật cắt bỏ bán phần dành cho những ung thư ở một thùy duy nhất của tiền liệt tuyến.
Hỏi : Những ung thư tiền liệt tuyến phải chăng thường gặp ở đàn ông ?
GS Pascal Rischmann. Đó là những ung thư thường gặp nhất, ta thống kê hơn 50.000 trường hợp mới mỗi năm ở Pháp, nhất là ở đàn ông từ 60 den 75 tuổi. Không nên lẫn lộn chúng với những adénome, những u hiền tính.
Hỏi : Có những triệu chứng báo hiệu không ?
GS Pascal Rischmann. Ở giai đoạn sớm, khối u phát triển không gây nên những triệu chứng, trái với một hypertrophie bénigne. Phì đại hiền tính của tiền liệt tuyến có thể đè ép niệu đạo và làm trở ngại sự bài xuất nước tiểu. Sự khó tiểu này chỉ được biểu hiện ở một giai đoạn tiến triển của ung thư.
Hỏi : Bắt đầu từ lứa tuổi nào ông khuyên nên điều tra phát hiện ?
GS Pascal Rischmann. Ngay 50 tuổi ta khuyên thực hiện một xét nghiệm máu đơn giản : định lượng PSA. Nồng độ bình thường được giải thích tùy theo những yếu tố khác nhau gồm tuổi tác, thể tích của tuyến tiền liệt… Trong trường hợp tiền sử gia đình, sự điều tra phát hiện này được thực hiện ngay 45 tuổi.
Hỏi : Trong trường hợp nghi ngờ sau một kết quả đầu tiên của phân tích này, làm sao đảm bảo chẩn đoán ?
GS Pascal Rischmann. Là cần thiết : một khám trực tràng và một sinh thiết bằng kim dưới sự hướng dẫn của siêu âm (biopsie à l’aiguille sous échographie) xuyên qua trực tràng (nói chung đã được IRM trước đó)
Hỏi : Hiện nay, ở Pháp, lúc điều tra phát hiện, những ung thư này thường nhất được chẩn đoán ở giai đoạn nào ?
GS Pascal Rischmann. Trong đa số các trường hợp, ta khám phá chúng ở một giai đoạn khu trú, gồm ba loại : có nguy cơ thấp, trung gian và cao
Hỏi : Đối với những ung thư khu trú này, những điều trị quy ước là gì ?
GS Pascal Rischmann. Đối với những ung thư có nguy cơ thấp, ta có thể xét đến một sự theo dõi tích cực gồm một sự kiểm soát mỗi 4 tháng (với khám trực tràng và phân tích PSA), rồi một sinh thiết một năm sau (sau đó mỗi 2 hay 3 năm). Hiện nay, đối với những nguy cơ trung gian hay cao, ta thực hiện một điều trị triệt căn của tất cả tiền liệt tuyến, hoặc bằng ngoại khoa, hoặc bằng radiothérapie hoặc, đối với những người trên 70 tuổi, bằng một kỹ thuật siêu âm trên tất cả tuyến.
Hỏi : Với những protocole điều trị tất cả tuyến tiền liệt này, những kết quả là gì ?
GS Pascal Rischmann. Nói chung những kết quả đều tốt. Đối với những ung thư có nguy cơ trung bình, những trường hợp chữa lành có được trong khoảng 85% những trường hợp. Đối với những ung thư khác, trong 50 đến 85% những trường hợp. Nhưng với sự cắt bỏ triệt căn hay phóng xạ hoàn toàn tuyến tiền liệt, có một nguy cơ biến đổi chức năng cương (khoảng 50%) và đôi khi són tiểu (trung bình 15%).
Hỏi : Hémiablation, điều trị mới đây đối với các ung thư tiền liệt tuyến, chỉ cắt bỏ một thùy của tuyến là gì ?GS Pascal Rischmann. Kỹ thuật này sử dụng những siêu âm có cường độ cao (ultrasons de haute intensité), cho phép nhắm vào những mô ở sâu và nhắm một cách chính xác vùng ung thư, đồng thời bảo tồn những mô lành mạnh chung quanh. Ưu điểm là chỉ điều trị bị thương tổn chứ không phải toàn bộ tiền liệt tuyến. Vậy đó là một thủ thuật bảo tồn hơn là liệu pháp quy ước. Buổi điều trị kéo dài khoảng 1 giờ và có thể được thực hiện ngoại trú với gây tê tủy sống (rachianesthésie).
Hỏi : Công trình nghiên cứu nào đã chứng minh tính hiệu quả và sự an toàn của điều trị bảo tồn này đối với những ung thư khu trú ở một thùy ?
GS Pascal Rischmann : Tạp chí “European Urology” mới đây đã công bố những kết quả có sức thuyết phục của một công trình nghiên cứu, được thực hiện bởi Association française d’urologie (với 10 trung tâm bệnh viện công và tư) trên 111 bệnh nhân khoảng 65 tuổi và có một thùy của tiền liệt tuyến bị ung thư. Những kết quả, với một thời gian nhìn lại trên 2 năm, cho thấy rằng, trong những trường hợp được chọn lọc kỹ, ta có thể tránh một điều trị triệt căn tất cả tuyến mà không gay biến chứng, với ít tác dụng phụ (dưới 3% són tiểu và dưới 20% rối loạn chức năng cương).
Hỏi : Những tiêu chuẩn không thể tránh được nào để chọn kỹ thuật này ?
GS Pascal Rischmann : Chỉ vài ung thư khu trú của tuyến tiền liệt với nguy cơ thấp hay trung bình có thể hưởng kỹ thuật này. Khối u phải có thể thấy được bằng IRM và chỉ sờ được một thùy duy nhất của tuyến. Bây giờ khái niệm hémi-ablation này phải được công nhận cho một thực hành thông thường.
Hỏi : Ở đâu bệnh nhân nào có thể nhận những siêu âm điều trị.
GS Pascal Rischmann : Hơn 50 trung tâm được trang bị ở Phap.
(PARIS MATCH 24/11-30/11/2016)
9/ ASPIRINE VA UNG THƯ TỤY TẠNG
Mỗi năm hơn 11.000 trường hợp ung thư tụy tạng mới được thống kê ở Pháp. Năm 2015, ung thư tụy tạng đã giết chết 403.600 người trên thế giới. Tính chất nghiêm trọng của ung thư tuy tạng được liên kết với vị trí cơ thể học của nó: tuy tạng nằm rất sâu và ẩn dấu trong bụng. Một số lớn những thử nghiệm đã cho thấy rằng aspirine, khi được sử dụng với liều thấp, làm giảm nguy cơ xuất hiện những loại ung thư rắn (cancers solides) khác nhau. Một công trình nghiên cứu, được điều khiển bởi GS Harvey Risch (Yale School, New Haven, Hoa Kỳ), trong 5 năm ở Thượng Hải, đã theo dõi hơn 1500 người Trung Hoa, một nửa bị ung thư tụy tạng, một nửa còn lại, những người chứng. Những kết quả xác nhận những kết quả của một công trình nghiên cứu tương tự của Hoa Kỳ và của 18 thử nghiệm khác trên thế giới : 75 đến 300 mg aspirine mỗi ngày đã làm giảm 46% nguy cơ xuất hiện của ung thư này sau 5 nằm điều trị !
(PARIS MATCH 26/1-1/2/2017)
10/ UNG THƯ BUỒNG TRỨNG : LỢI ÍCH CỦA TỎI.
Những nhà nghiên cứu của đại học Kumamoto, ở Nhật bản, đã khám phá rằng một thành phần của tỏi, onionine A, có thể ức chế sự tăng sinh của những tế bào ác tính của buồng trứng người và giảm kích thước của những ung thư này ở động vật. Họ đề nghị, ngoài điều trị, thêm chất này vào trong complément alimentaire.
(PARIS MATCH 24/11-30/11/2016)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(5/4/2017)
Pingback: Thời sự y học số 592 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương
Pingback: Thời sự y học số 603 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương