Thời sự y học số 413 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ TA KHÔNG ĐÙA NỮA VỚI NHỮNG MIGRAINE
Những chiến lược hiện nay cho phép làm thuyên giảm 70% những người bị bệnh migraine.
NEUROLOGIE. Migraine là một bệnh vùng hai (maladie de seconde zone) ? Chắc chắn là không phải vậy ! ” Migraine, đó là 17 đến 20% người trưởng thành và 5 đến 10% trẻ em bị liên hệ “, BS Anne Donnet (centre antidouleur ở CHU de Marseille) đã nhắc lại như vậy). “Migraine, đó cũng là một phí tổn trực tiếp đối với sức khỏe, được ước tính cách nay vài năm, 3 tỷ euro mỗi năm ở Pháp, một phí tổn gián tiếp (năng suất) khoảng từ 15 đến 20 triệu ngày lao động bị mất. Sau cùng đó là, theo những dữ kiện anglo-saxon, những lựa chọn nghề nghiệp bị chi phối bởi các cơn. Ngoài ra không phải là tình cờ khi OMS đã xếp loại migraine trong số 20 bệnh gây phế tật nhất về mặt xã hội”, BS Michel Lanteri-Minet (CHU Nice) đã nói như vậy.
Vì những lý do này, từ nhiều năm nay những chuyên gia về migraine đã tranh đấu để chuyển thông điệp nói rằng vâng, migraine có thể rất gây phế tật và rằng không, tất cả những người bị bệnh migraine chưa được chẩn đoán và do đó không được điều trị đúng đắn, mặc dầu sự điều trị đã được cải thiện đối với vài bệnh nhân nhờ một sự phổ biến rộng rãi thông tin (các trẻ em và thiếu niên đặc biệt được xem trọng hơn). ” Các gia đình đã hiểu rằng migraine là một bệnh di truyền và do đó các trẻ em có thể bị bệnh ở bất cứ lứa tuổi nào. Ngoài ra, hôm nay những triệu chứng mửa chu kỳ của trẻ em được xem như một tương đương của migraine”, BS Dominique Valade, nguyên trưởng Centre d’urgences céphalée của bệnh viện Lariboisière, đã đưa ra thí dụ như vậy.
Mặc dầu có tiến bộ về mặt thông tin, nhưng tất cả chưa được thực hiện về phía điều trị. ” Lý tưởng, tất cả những người bị bệnh migraine phải nói điều đó với thầy thuốc gia đình của mình (1er pallier). Vị thầy thuốc điều trị này gởi đến thầy thuốc chuyên khoa thần kinh trong trường hợp migraine không như lệ thường hay đề kháng với điều trị thường dùng (2è palier). Như thế 3è palier (consultation migraine và/hoặc centre antidouleur) phải được dành cho những trường hợp nặng nhất. Bất hạnh thay, thường phải nhiều tháng chờ đợi để có được một lấy hẹn”, BS Donnet đã lấy làm tiếc như vậy. Khá thường chẩn đoán là đơn giản. ” Trên 5 cơn migraine điển hình, vô ích thực hiện những thăm dò (scanner hay IRM) : vấn chẩn là đủ. Quá nhiều tiền bạc bị xài phí vì những thăm dò vô ích, sử dụng những phí tổn này để trả tiền những loại thuốc mới hợp lý hơn”, BS Valade đã phàn nàn như vậy.
Những điều trị hiện nay cho phép kiểm soát 7 cơn trên 10 và hơn hai bệnh nhân trên ba. Về nghiên cứu, có những tiến bộ : ” Về sự phát triển những kỹ thuật không dùng thuốc (neuromodulation), kích thích điện dây thần kinh phế vị (không xâm nhập) vào lúc cơn nhờ một máy nhỏ đặt nằm đối diện đang được đánh giá. Hướng nghiên cứu khác khá tiến triển : những kháng thể chống CGRP (Calcitonin-Gene-Related Polypeptide) nhắm một chất dẫn truyền thần kinh được tiết vào lúc đau đầu (migraine, nhưng cũng algie vasculaire de la face). Vì từ rất lâu da không có tiến bộ trong điều trị nền (traitement de fond) của migraine, nên liệu pháp nhắm đích đặc hiệu mới này, hiện ở giai đoạn 3 của nghiên cứu (với hy vọng đưa ra thị trường trong 3 đến 5 năm nữa), thật sự mang lại hy vọng. Thuốc được trình bày dưới dạng tiêm (một mũi tiêm mỗi 28 ngày), điều này cho phép có được một sự tuân thủ tốt điều trị những bệnh nhân của chúng ta “, BS Donnet đã nhấn mạnh như vậy.
Ngoài ra, không phải có một mà 4 kháng thể được phát triển và nhắm hai đích khác nhau (CGRP hay thụ thể của nó). Nhờ thế khiến hy vọng điều trị một quần thể rộng hơn những người bị bệnh migraine. ” Những người cho đến nay được nhắm đến bởi những thử nghiệm, liên quan hoặc là những người bệnh migraine làm 3 đến 14 cơn mỗi tháng hoặc những người migaine có 9 đến 14 ngày đau đầu migraine mỗi tháng hay những bệnh nhân migraine bị một dạng mãn tính (hơn 15 ngày mỗi tháng từ hơn 3 tháng). Thế mà tính hiệu quả đã là tốt, kể cả đối với những bệnh nhân bị những thể nặng, mà đối với họ cho đến nay ta tỏ ra bất lực. Đối với 25% những bệnh nhân ngay cả đã có một đáp ứng 100%, đấy là điều ngoại lệ “, BS Donnet đã nói tiếp như vậy.
Tuy nhiên còn quá sớm để hô vang chiến thắng : vẫn còn phải đánh giá tính hiệu quả và khả năng dung nạp trong thời gian trung hạn của những kháng thể này. ” Thật vậy, cách nay ít lâu, những gépans (điều trị đặc hiệu cơn migraine) cũng đã mang lại nhiều hy vọng nhưng đã cho thấy một độc tính lên gan, do đó đã kềm hãm sự phát triển của chúng, mặc dầu công trình nghiên cứu vẫn tiếp tục về hướng đó “, BS Valade đã ghi nhận như vậy. Sau cùng, ” theo một công trình nghiên cứu tiền phong mới nhất, được thực hiện bởi một kíp của Havard ở 50 người bị bệnh migraine, sự phối hợp statine (thuốc làm giảm cholestérol huyết) và vitamine D cho thấy lợi được 8 ngày không bị migraine mỗi tháng, điều này cũng là ngoại lệ, những đòi hỏi phải được xác nhận”, BS Lanteri-Minet đã xác nhận như vậy.
(LE FIGARO 7/11/2016)

2/ MỌI ĐAU ĐẦU ĐỘT NGỘT LÀ MỘT CẤP CỨU HUYẾT QUẢN
Vài nạn nhân, bị những loại đau đầu ít được biết hơn migraine, bị đu đưa từ thầy thuốc này đến thầy thuốc khác trước khi chẩn đoán được xác định. ” Giữa lúc một algie vasculaire de la face (AVF), dạng cấp tính của đau đầu, phát ra và lúc chẩn đoán được xác lập, trung bình trôi qua 6 hay 7 năm”, Dominique Valade, nguyên trưởng Centre d’ urgences céphalées của bệnh viện Laribosière (Paris) đã xác nhận như vậy. ” Hậu quả : trên 60.000 đến 70.000 người Pháp bị liên hệ, chủ yếu là những người đàn ông hút thuốc, dưới một nửa những trường hợp được điều trị trong khi algie vasculaire de la face nổi tiếng gây đau kinh khủng ! Bệnh xuất hiện từng thời kỳ nhiều tuần, thường vào mùa thu và/hoặc mùa xuân, trong đó các cơn xảy ra hàng ngày. Trong một cơn đau của algie vasculaire de la face, người bệnh có cảm tưởng như người ta ấn một con dao găm vào mặt họ hay như thể người ta nhổ con mắt của họ, đau cũng có thể lan về xương hàm, luôn luôn cùng phía. Vì có thể có nhiều cơn mỗi ngày (từ 45 phút đến 2 giờ), với con mắt chảy nước, lỗ mũi tuôn tràn và tình trạng rất kích động, nên những ảnh hưởng lên chất lượng sống là quan trọng. CẦN LÀM SCANNER
Tuy vậy, những điều trị hiện hữu : ” Trong trường hợp cơn algie vsculaire de la face, như đối với migraine, nhưng vì không thể vượt quá hai mũi tiêm dưới da trong 24 giờ, nên một thầy thuốc chuyên khoa thần kinh cũng có thể cho oxygénothérapie (bằng mặt nạ). Còn về điều trị nền, nó dựa trên một loại thuốc chủ yếu được sử dụng bởi các thầy thuốc chuyên khoa tim (vérapamil liều mạnh) hay bởi những thầy thuốc tâm thần (sels de lithium) “, BS Anne Donnet (CHU Marseille) nói tiếp. ” Sau cùng, nếu điều đó vẫn không đủ, thầy thuốc có thể thực hiện một mũi tiêm corticoide ở chỗ phát ra của dây thần kinh Arnold (3 mũi tiêm cách nhau 48 giờ), để còn làm giảm số các cơn “, BS Valade đã ghi nhận như vậy.
Névralgie faciale du trijumeau cũng gây đau đớn, mặc dầu profil những người liên hệ khác nhau (đó thường là những phụ nữ trên 60 tuổi) và không có tính chất chu kỳ. Có thuốc để điều trị và đối với những thể nặng nhất, một can thiệp ngoại khoa có thể được thực hiện.
Tuy nhiên có một tình huống trong đó không được mất một giây phút nào. ” Mọi đau đầu không như lệ thường, xuất hiện đột ngột, phải được xem như một cấp cứu mạch máu, cần tức thời một ý kiến y khoa mặc dầu cơn đau đầu này tạm thời ổn định trở lại. Phải gọi Samu bởi vì một chụp cắt lớp vi tính không tiêm chất cản quang là cần thiết để kiểm tra rằng một xuất huyết màng não không xảy ra, thí dụ sau khi vỡ một phình động mạch. Đó là điều quan trọng và mọi người, thường bị đau đầu hay không, phải biết điều đó !”, BS Lanteri-Minet (CHU Nice) đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 7/11/2016)

3/ ” TÔI PHẢI CẦN ĐẾN 6 NĂM ĐỂ CÓ MỘT CHẨN ĐOÁN “
Đối với Hélène Floride, giáo sư của các trường ở miền Nam nước Pháp, cuộc sống đổi thay vào năm 2001, khi cô ta được 36 tuổi. ” Tất cả đã bắt đầu bởi điều rất giống với một rage de dents. Khi đó tôi khám cấp cứu thầy thuốc gia đình và ông ta gởi tôi đến một nha sĩ nhưng ông này chẳng tìm thấy gì hết. Ở răng bị đau, tất cả đều bình thường, như được xác nhận sau này bởi một nha sĩ khác. Vì bị nhiều cơn đau mỗi ngày, kéo dài từ 2 đến 3 giờ mỗi cơn, vị thầy thuốc của tôi cuối cùng kê đơn cho tôi một thuốc chống động kinh và một thuốc chống trầm cảm, cũng được sử dụng trong những trường hợp đau bất trị : với điều trị này cơn đau giảm bớt khoảng 3 tháng trước khi tái diễn trở lại. Sau do thầy thuốc gia đình gởi tôi đến một stomatologue (thầy thuốc chuyên khoa miệng). Ông này chẩn đoán tôi bị một béance de la machoire (há hàm) và đề nghị một can thiệp ngoại khoa khá nặng nề để điều chỉnh. Không được thuyết phục, tôi đi khám một stomatologue khác ; ông này không đồng ý với stomtologue kia, điều này không làm tôi yên lòng bao nhiêu !
” Trong thời gian đó, tôi vẫn đau như thế : tôi không còn kiên nhẫn nỗi, những người thân của tôi cũng thế (các con tôi còn nhỏ). Chồng tôi đôi khi khép mình trong garage để khóc thầm, bị dày vò giữa giận dữ, cảm thông và bất lực.Thật là khổ tâm thấy một người thân đau khổ mà không thể giúp đỡ một cách cụ thể. Trong số những bạn đồng nghiệp, vài người không do dự nói rằng đó là “tâm thần” (một điều cổ điển khi ta là phụ nữ).
” Cứ bị chuyển từ thầy thuốc này qua thầy thuốc khác, sau cùng tôi rớt vào trung tâm chống đau của CHU de Marseille và ở đó, lần đầu tiên, người ta tiến hành một cách hệ thống và khi nhận diện tính cách chu kỳ của các cơn đau, người ta đã tìm được cho tôi chẩn đoán algie vasculaire de la face. Sự nhận biết điều mà tôi đã trải nghiệm là một sự nhẹ nhõm thật sự. Lần đầu tiên tôi được tin và được tín nhiệm ! Sau đó tôi được cho vérapamil và gabapentine (một thuốc chống động kinh), chúng đã làm tôi thuyên giảm nhiều cho đến năm 2014. Và các cơn trở lại bắt đầu từ thời kỳ này. Đã phải thêm vào điều trị trước muối lithium và từ đó, lần nữa, tôi cảm thấy khá hơn nhiều.
” Tôi khuyên những người đau mà không biết tại sao hãy vượt qua ngưỡng cửa của những trung tâm chống đau này (Centre antidouleur) : họ tránh phải mất nhiều năm trước khi một chẩn đoán thật sự được thiết đặt.”
(LE FIGARO 7/11/2016)

4/ TỤY TẠNG NHÂN TẠO XUẤT HIỆN TRÊN THỊ TRƯỜNG
Sự thương mãi hóa thiết bị ngoài này vừa được Hoa Kỳ cho phép.
ENDOCRINOLOGIE. Sau những thử nghiệm lâm sàng xác chứng, cơ quan dược phẩm Hoa Kỳ đã cho phép thương mãi hóa, đối với những người trưởng thành, tụy tạng nhân tạo đầu tiên. MiniMed của xí nghiệp Ái Nhĩ Lan Medtronic không phải là một prothèse được cấy trong cơ thể của bệnh nhân mà là một boitier externe được đeo vào dây thắt lưng. Thiết bị này dành để chữa tạm sự mất tiết insuline ở những người bị bệnh đái đường loại 1 do tụy tạng bị suy. Thiết bị gồm một capteur đặt dưới da để đo nồng độ glucose mỗi năm phút và một pompe để tiêm truyền xuyên qua một chiếc kim trong trường hợp cần insuline. Một màn ảnh tương tự với màn ảnh của một smartphone cho biết nồng độ đường huyết và insuline. Vậy không cần phải lấy máu bằng tay và phân tích nó, cũng chẳng cần tự tiêm insuline (ngoại trừ trong những bữa ăn, khi đó liều phải được thích ứng với những glucides được nhận vào). Thiết bị này đang được đánh giá ở trẻ em.
(SCIENCES ET AVENIR 11/2016)

5/ ĐẶT PROTHESE VAI : MỘT NGOẠI KHOA NGOẠI TRÚ
BS Renaud Gravier, chirurgien-orthopédiste, chuyên về chi trên, Institut de la main à Marseille, trình bày những ưu điểm của phương pháp này và ngày ra viện cùng với ngày mổ.
Hỏi : Trong những trường hợp nào ta dự kiến đặt một prothèse d’épaule ?
BS Renaud Gravier : Khi một bệnh nhân bị một hư khớp nặng rất đau với một sự hao mòn của sụn. Hoặc sự hao mòn này là riêng rẻ và những mô chung quanh (các dây gân và cơ tạo thành coiffe des rotateurs) lành mạnh, hoặc chúng cũng bị xuống cấp.
Hỏi : Protocole ngoại khoa cổ điển là gì ?
BS Renaud Gravier : Đó là một phẫu thuật nặng nề, qua đó ta cắt bỏ đầu của xương cánh tay để thay thế nó bằng một prothèse. Sau đó ta đặt một prothèse thứ hai ở xương bã vai (omoplate) để đảm bảo một sự cử động tốt của khớp vai và sự biến mất của những triệu chứng đau. Kỹ thuật ngoại khoa cổ điển này, kéo dài gần một giờ rưỡi, cần nhập viện từ 3 đến 5 ngày và đặt những ống dẫn lưu (drains)
Hỏi : Thủ thuật ngoại khoa có khác nhau tùy theo tầm quan trọng sụn bị hao mòn không ?
BS Renaud Gravier : Khi coiffe des rotateurs bị thương tổn, ta đặt một prothèse được gọi là “inversée”. Đó là một implant làm biến đổi cơ thể học trong của vai để cho phép phục hồi khả năng cử động của nó nhờ một cơ duy nhất vẫn còn chức năng, cơ deltoide.
Hỏi : Những kết quả có được là gì ?
BS Renaud Gravier : Ở những bệnh nhân mà sự hao mòn sụn vẫn riêng rẻ, ta có được một sự phục hồi gần 85% bình thường, về mặt vận động và đau. Với sự đặt prothèse inversée, ta hủy bỏ được những triệu chứng đau nhưng những kết quả trên khả năng cử động ít thỏa mãn hơn ; ta có thể hy vọng phục hồi 70% chức năng bình thường của nó.
Hỏi : Bằng thủ thuật nào ta đề nghị cải thiện sự điều trị ngoại khoa này ?
BS Renaud Gravier : Đó là thiết đặt một prothèse d’épaule nhờ một kỹ thuật ngoại khoa ngoại trú, trong đó bệnh nhân nhập viện buổi sáng và trở về nhà buổi chiều. Mục đích là hạn chế nguy cơ nhiễm trùng, rút ngắn thời gian nhập viện để bệnh nhân tìm lại một cách nhanh chóng môi trường quen thuộc của mình đồng thời chế ngự triệu chứng đau hậu phẫu ở nhà.
Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi giai đoạn đầu tiên của protocole ngoại trú này ?
BS Renaud Gravier : Trước hết bệnh nhân được tiếp nhận bởi thầy thuốc ngoại khoa, giải thích cho bệnh nhân diễn biến của cuộc mổ, rồi bởi thầy thuốc gây mê, nói chi tiết chương trình săn sóc mà bệnh nhân sẽ nhận ở nhà. Khi đó bệnh nhân biết những giai đoạn của sự xử trí, trong đó giai đoạn tại nhà bởi một kíp điều dưỡng liên lạc với bệnh viện (y tá, kinésithérapeute, thầy thuốc gia đình).
Hỏi : Có những khác nhau giữa ngoại khoa ngoại trú và ngoại khoa cổ điển ?
BS Renaud Gravier : Đối với ngoại khoa ngoại trú, thời gian gây mê ít dài hơn, nhẹ hơn và những thuốc gây mê được thải nhanh hơn. Ngoại khoa ngoại trú cho phép bệnh nhân tỉnh dậy sớm hơn, phục hồi n autonomie nhanh hơn, hầu như không đau đớn. Nếu thủ thuật này có thể thực hiện được, đó là bởi vì ta liên kết với nó một anesthésie locorégionale ở cánh tay. Được gọi là “phong bế tùng thần kinh” (bloc plexique), nó gây tê những dây thần kinh vận động và cảm giác trong 24 đến 48 giờ. Còn về phẫu thuật, những động tác ngoại khoa cũng giống với protocole quy ước, nhưng thời gian mổ ngắn hơn (45 phút thay vì 1 giờ 30) và xuất huyết ít hơn, điều này giải thích tại sao không cần đặt ống dẫn lưu.
Hỏi : Những prothèse mới có cho phép ông phẫu thuật ngoại trú thường hơn không ?
BS Renaud Gravier : Trong viện của chúng tôi, chúng tôi sử dụng khá thường xuyên những hémiprothèse thế hệ mới bằng pyrocarbone, chỉ thay thế một phần của khớp vai, xương cánh tay. Pyrocarbone có một tính chất cơ học rất gần với tính chất của xương, so sánh với những prothèse bằng titane hay hợp kim chrome và cobalt. Mục đích là tránh đặt một implant trên xương bã vai vì có nguy cơ bị long đi với thời gian. Điều đó cũng cho phép giảm thời gian can thiệp và chảy máu. Như thế chúng tôi có thể đề nghị thường xuyên hơn ngoại khoa ngoại trú này.
Hỏi : Có những chống chỉ định với việc đặt prothèse này không ?
BS Renaud Gravier : Ta dành kỹ thuật này cho những người dưới 65 tuổi, có coiffe des rotateurs nguyên vẹn, ở họ hémiprothèse được chỉ định và họ muốn một ngoại khoa ngoại trú. Ta không thể xét đến protocole ngoại trú này đối với những bệnh nhân sống một mình và ở quá xa bệnh viện.
(PARIS MATCH 10/3-16/3/2016)

6/ MỘT VACCIN CHỐNG BỆNH TRẦM CẢM CÓ THỂ ĐƯỢC DỰ KIẾN
Colloque đầu tiên về immunopsychiatrie ở Pháp đã được tổ chức vào tháng mười 2016 ở Viện Pasteur (Paris)
Hỏi : Ta có thể tưởng tượng rằng, một ngày nào đó ta sẽ có một vaccin chống chứng trầm cảm ?
Robert Dantzer : Vâng ! Trên cơ sở của những kết quả của chúng tôi trên những bạch cầu trong sự hồi phục các chứng trầm cảm gây nên bởi một phản ứng viêm, một vaccin như thế sẽ được xét đến trong tương lai. Nếu những công trình được tiến hành trên chuột của chúng tôi có thể áp dụng ở người, ta sẽ có thể tưởng tượng một vaccin phòng ngừa ở những người có nguy cơ.
Hỏi : Ông đã khám phá hướng viêm này như thế nào ?
Robert Dantzer : Chúng tôi đã xác chứng rằng những triệu chứng của trầm cảm cũng xảy ra nhân một đợt viêm trong cơ thể. Lúc khảo sát trên các con chuột để hiểu tốt hơn điều xảy ra ở những bệnh nhân bị ung thư, chúng tôi đã nhận thấy rằng não đáp ứng với viêm bằng một sự sản xuất những yếu tố độc thần kinh. Chỉ cần phong bế sự sản xuất hay tác dụng của chúng ta có thể ngăn cản sự phát triển của trầm cảm.
Hỏi : Còn ở người ?
Robert Dantzer : Ta đã biết rằng những điều trị sinh học với mục đích điều trị viêm ngoại biên ở những bệnh nhân bị maladie rhumatoide, psoriasis hay những bệnh thấp khớp khác, cũng tác dụng lên sự mệt mỏi và khí chất trước khi căn bệnh được trừ triệt. Những thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng nếu ta điều trị những bệnh nhân trầm cảm có một viêm mãn tính nhẹ, ta sẽ cải thiện những triệu chứng của họ.
(SCIENCES ET AVENIR 11/2016)

7/ ZIKA ĐI VÀO TRONG TINH TRÙNG.
VIROLOGIE. Có thể tồn tại trong tinh dịch đến sáu tháng sau nhiễm siêu vi trùng, virus Zika ngay cả có thể ở bên trong những tinh trùng. Một sự kiện gây kinh ngạc khi ta biết rằng những virus có thể truyền bằng đường sinh dục khác, như VIH, không đi vào trong những tinh trùng. Điều xác chứng, được xác lập trên một bệnh nhân 32 tuổi, đã tiết lộ rằng virus vẫn hiện diện trong khoảng 3,5% những tinh trùng khi nó đã biến mất khỏi máu và nước tiểu.
(SCIENCES ET AVENIR 11/2016)

8/ DÂY CUỐNG RỐN CHỨA MỘT CHẤT KHÁNG VIÊM
Một sự tiếp xúc đột ngột với nhiều vi khuẩn : đó là điều mà một trẻ sơ sinh đã kinh qua. Thế thì làm sao mà cơ thể của nó không cho thấy một phản ứng viêm nào ? Nhờ một chất kháng viêm hiện diện trong nhau và được cung cấp cho em bé qua cuống rốn. Được khám phá bởi những nhà nghiên cứu của đại học Utah (Hoa Kỳ), chất này có khả năng ức chế vài phản ứng viêm khả dĩ làm tổn hại cơ thể. Để trắc nghiệm nó, những nhà nghiên cứu đã tiêm nó vào những con chuột trưởng thành bị một nhiễm trùng vi khuẩn. Khi đó họ đã chứng thực rằng tỷ lệ sống còn của các con vật gia tăng một cách đáng kể. Khám phá này có thể đưa đến những điều trị mới, nhất là khi ” những cơ chế viêm mà chất này ức chế có thể có can dự trong những bệnh tự miễn dịch như viêm đa khớp dạng thấp hay bệnh Crohn “, Christian Yost, tác giả đầu tiên của công trình nghiên cứu, đã tiết lộ như vậy
(SCIENCE ET VIE 11/2016)

9/ MỘT PACEMAKER CÓ THỂ HẠN CHẾ VÀI TRƯỜNG HỢP NGỪNG THỞ NGẮN KHI NGỦ
Một thí nghiệm, được thực hiện trên những bệnh nhân người Đức, Ba lan và Mỹ bị chứng ngừng thở ngắn trung ương lúc ngủ (apnée centrale du sommeil), gợi ý lợi ích của một thiết bị kích thích thần kinh. Có thể so sánh với một máy tạo nhịp tim (pacemaker cardiaque), máy kích thích thần kinh này, được cấy trong một tĩnh mạch, sẽ kích thích điện dây thần kinh hoành (nerf phrénique) sinh hô hấp. Lúc khởi đầu của công trình nghiên cứu, 151 bệnh nhân có hơn 20 lần ngừng hô hấp mỗi giờ. Tất cả đều nhận thiết bị này, nhưng chỉ một nửa được kích hoạt ở những bệnh nhân này. Sau 6 tháng điều trị, 51% những bệnh nhân thuộc nhóm “kích hoạt” có tần số ngừng thở được giảm một nửa hoặc hơn, chỉ 11% ở nhóm “bất hoạt”. Trong trường hợp ngừng thở ngắn trung ương lúc ngủ, tín hiệu phát xuất từ não để phát khởi hô hấp không được gởi một cách đều đặn. Căn bệnh này, xảy ra ở khoảng 4% dân số, không có liên hệ với ngừng thở ngắn do tắc lúc ngủ (apnée obstructive du sommeil), thường gặp hơn, trong đó những mô mềm của phần sau họng ngăn cản không khí đi qua.
(SCIENCE ET VIE 11/2016)

10/ 6 CẢM XÚC CÓ THỂ ĐỌC ĐƯỢC TRONG NÃO BỘ
Sự buồn rầu, sự vui đùa, sự sợ hãi, giận dữ, sự bằng lòng và ngạc nhiên, đó là 6 trạng thái mà kíp của Kevin LaBar, nhà tâm lý học của đại học Duke, đã quan sát được trong não của chúng ta nhờ một kỹ thuật chụp hình ảnh, IRMf (cộng hưởng từ chức năng). Những vidéo và những khúc nhạc, được cho là gây nên 6 cảm xúc này, đã được trình bày cho 32 người, để tập cho một logiciel nhận biết những vùng não được kích hoạt. Hoạt động như là một trí thông minh nhân tạo, logiciel này đã học phát hiện những cảm xúc trong não. Bằng cớ : luôn luôn với IRM, 21 người tham dự đã được để cho suy nghĩ vớ vẩn và đã tuyên bố những điều họ cảm thấy mỗi 30 giây. Và logiciel đã nhận biết mỗi xúc cảm trong 10 giây đi trước sự tuyên bố, với một tỷ lệ thành công giữa 60% (sợ hãi) và 80% (bằng lòng) ! Kết quả này đã có thể được dùng để chẩn đoán và nghiên cứu bệnh trầm cảm. Patrik Vuilleumier, neuroscientifique thuộc đại học Genève, giải thích :” Những bệnh nhân trầm cảm có khuynh hướng trở lại chậm hơn trạng thái trung lập, thí dụ sau khi đã cảm thấy buồn rầu “. Từ nay điều đó đọc được trong não.
(SCIENCE ET VIE 11/2016)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(17/11/2016)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s