Thời sự y học số 379 – BS Nguyễn Văn Thịnh

menopause1/ BỆNH MÃN KINH : MỘT THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP ĐÔI KHI KHÓ KHĂN
51 tuổi : Đó là tuổi trung bình xuất hiện mãn kinh.

                             NHỮNG HẬU QUẢ KHẢ DĨ LÊN CƠ THẾ
Thời kỳ mãn kinh tương ứng với sự chấm dứt kinh nguyệt, sự rụng trứng, sự tiết các kích thích tố sinh dục.
Sự sụt giảm sản xuất các kích thích tố sinh dục bởi các buồng trứng có thể gây nên những biến đổi sâu đậm trong cơ thể :
– Cơn bốc hỏa (bouffées de chaleur), mồ hôi đêm : triệu chứng thường gặp
nhất, làm khó chịu nhưng không nguy hiểm
– Những rối loạn giấc ngủ, khí chất và những chức năng nhận thức : kèm
theo mệt và mất ngủ.
– Khô âm đạo : thành âm đạo trở nên mảnh hơn và ít đàn hồi hơn
– Loãng xương (ostéoporose) : giảm chất lượng xương, gia tăng nguy cơ
gãy xương
– Lên cân : kèm theo một sự tích tụ mỡ ở bụng
– Các nguy cơ tim mạch : gây nên bởi sự biến đổi chuyển hóa của lipides.

“Tôi thấy đến ngày càng thường hơn những phụ nữ có những rối loạn mãn kinh quan trọng, không thể ngủ được và đôi khi trong tình trạng rất khốn khổ, thế mà thầy thuốc phụ khoa của họ từ chối điều trị ”
GS ANNE GOMPEL
Trưởng khoa nội tiết phụ khoa
Bệnh viện Cochin (Paris)
                                                         THẾ CÒN ĐÀN ÔNG ?
Các ông phải chăng có một andropause như ménopause đối với các phụ nữ không ? Một điều tra, được công bố trong New England Journal 2010, đã phát hiện rằng hiện tượng này là hiếm. Các nhà nghiên cứu Anh đã đo các nồng độ testostérone, kích thích tố chịu trách nhiệm giọng nói trầm, khối lượng cơ (masse musculaire), râu và hệ lông riêng của đàn ông, của hơn 3300 người đàn ông từ 40 đến 79 tuổi trong 8 nước châu Âu và đã hỏi họ về lối sống. Andropause, còn được gọi là hypo-gonadisme, liên kết với một sự giảm nồng độ testostérone, là hiếm, chỉ xảy ra ở 2% những người đàn ông trong công trình nghiên cứu này. Trong trường hợp thiếu hụt testostérone, những người đàn ông đặc biệt có những khó khăn sinh dục, nhưng cũng có một sự đề kháng vật lý ít hơn và những rối loạn tâm lý như sự thay đổi tính khí đột ngột, mệt. Tuy vậy, đối với các chuyên gia, không cần dùng testostérone trong trường hợp thiếu hụt, nhất là nếu ta mạnh khỏe.

Sự sụt giảm sản xuất những kích thích tố sinh dục buồng trứng có thể cần một điều trị nội khoa.
ENDOCRINOLOGIE. ” Các phụ nữ từ nay sống một phần lớn đời mình sau thời kỳ mãn kinh”, GS Anne Gompel, trưởng unité d’endocrinologie gynécologique thuộc bệnh viện Cochin (Paris) đã nhắc lại như vậy. ” Thời kỳ bình thường của đời sống này có thể được kèm theo những triệu chứng khó chịu cần phải điều trị.” Thật vậy, ở Pháp, thời kỳ mãn kinh trung bình xuất hiện lúc 51 tuổi, điều này đại diện cho 450.000 phụ nữ mới bị mãn kính mỗi năm, trong đó một nửa có những triệu chứng khó chịu. Trong thời gian dài hạn, sự lão hóa và sự thiếu hụt oestrogène gây nên bởi mãn kinh, cũng được gọi là tuổi tắt dục (climatère), có thể gây những biến chứng như chứng loãng xương (ostéoporose) mà những hậu quả có thể được làm giảm bớt bởi một điều trị tốt, càng có hiệu quả khi điều trị được thực hiện vào lúc đầu của mãn kinh.
Ở Pháp, cũng như trong các nước Tây phương khác, sự biểu hiện cấp tính của chứng mãn kinh gây nên trước hết những rối loạn vận mạch : những cơn bốc hỏa (bouffées de chaleur) và vã mồ hôi vào ban đêm. Những triệu chứng này cũng được kèm theo khô âm đạo (sécheresse vaginale) và những rối loạn đường tiểu liên kết với teo niệu đạo. Những triệu chứng khác, ít đặc hiệu hơn của mãn kinh : những rối loạn giấc ngủ, khí chất và của những chức năng nhận thức (fonction cognitive). Những đau khớp cũng có thể xuất hiện : ngoài ra chúng là nguồn đầu tiên gây khó chịu đối với những phụ nữ mãn kinh ở châu Á, ở đây chứng mãn kinh gây nên những triệu chứng khác, có lẽ do sự tiêu thụ quan trọng đậu nành của những quần thể này.
Những triệu chứng này là do sự sụt giảm sản xuất của những kích thích tố sinh dục buồng trứng, progestérone và oestrogène, được biểu hiện bởi sự ngừng dần dần và vĩnh vien của kinh nguyệt. Cơ thể phải quen với sự biến mất của những kích thích tố này, can dự trọng trong nhiều quá trình điều hòa chuyển hóa, như nó đã phải từng quen với sự xuất hiện của chúng vào lúc dậy thì. Những triệu chứng của rối loạn này giảm bớt với thời gian, thường nhất giữa 3 và 5 năm sau khi khởi đầu thời kỳ mãn kinh nhưng có thể tồn tại đến 10 năm sau khi ngừng kinh nguyệt hoàn toàn ở vài phụ nữ.
Nhiều chiến lược có thể được sử dụng để làm giảm ảnh hưởng của những triệu chứng này lên chất lượng sống. Điều trị hiệu quả nhất vẫn là điều trị thay thế hormone (THS : traitement de substitution hormonal), cho phép bù sự thiếu hoạt động của các buồng trứng : nó mang lại một sự thuyên giảm tức thời trong 90% các trường hợp. Hiện nay điều trị này bị tranh cãi mặc dầu từ nay những công trình nghiên cứu và những khuyến nghị cho phép giới hạn những nguy cơ đồng thời mang lại một sự thuyên giảm đối với những phụ nữ quá khổ sở vì những triệu chứng mãn kinh. ” Tôi thấy đến ngày càng thường hơn những phụ nữ có những rối loạn mãn kinh quan trọng, không thể ngủ được và đôi khi trong tình trạng rất khốn khổ, thế mà thầy thuốc phụ khoa của họ từ chối điều trị “, GS Gompel đã lấy làm tiếc như vậy.
Có những giải pháp thay thế, có thể được đề nghị, nhất là cho những phụ nữ có những chống chỉ định tuyệt đối với THS, nhưng tất cả ít thỏa mãn hơn : phyto-oestrogène (đối với những phụ nữ đã không bị ung thư vú) với tính hiệu quả rất thay đổi, vài thuốc chống trầm cảm với tính hiệu quả ít hơn (60%) và những kết quả chỉ xuất hiện sau 2-3 tháng, clonidine với tính hiệu quả rất hạn chế, homéopathie mà tính hiệu quả tùy thuộc vào profil của bệnh nhân. Cũng có những crème và những gel để đặt tại chỗ nhằm chống lại sự khô âm đạo và những rối loạn tiểu tiện. ” Ngay cả mặc dầu chứa những oestrogène, những điều trị này, tuy không có nguy cơ bởi vì ta đặt tại chỗ và chỉ hai lần mỗi tuần, lại không được kê đơn nhiều “, GS Gompel đã nhấn mạnh như vậy.
Thời kỳ mãn kinh và những biến đổi hormone của nó dẫn đến những biến đổi tột bậc trong cơ thể. Nó gia tốc sự mất xương, vốn diễn ra một cách tự nhiên trong suốt cuộc đời, gia tăng nguy cơ loãng xương và gãy xương. Nó cũng biến đổi chuyển hóa lipide : những tế bào mỡ bị biến đổi và trọng lượng được phân bố một cách khác ở những phụ nữ mãn kinh, để tích tụ dễ dàng hơn trên bụng. Cơ thể cũng tiêu thụ ít năng lương hơn : nhiều phụ nữ kêu ca bị lên cân vào thời kỳ mãn kinh. Sự biến đổi cân bằng lipide này cũng liên kết với một sự gia tăng những nguy cơ tim mạch có thể phòng ngừa : chế độ ăn uống cân bằng, ít nhiều mỡ và calorie cũng như một hoạt động vật lý đều đặn như bước. Vậy thời kỳ mãn kinh có thể được chuẩn bị trước khi nó xuất hiện, với những biến đổi nhỏ về lối sống mà những lợi ích sẽ được cảm thấy ngay sau lứa tuổi thay đổi này.
(LE FIGARO 8/6/2015)

2/ CHỨNG LOÃNG XƯƠNG : LÀM GIẢM NHỮNG NGUY CƠ
” Tất cả các phụ nữ đều mất xương vào thời kỳ mãn kinh nhưng tất cả các phụ nữ sẽ không đều bị loãng xương “, BS Catherine Cormier, rhumatologue thuộc bệnh viện Cochin đã nhắc lại như vậy. Thật vậy, dầu thuộc giới tính nào, khối lượng xương (masse osseuse) giảm từ năm 30 tuổi, nhưng sự giảm này được tăng nhanh vào thời kỳ mãn kinh, đặc biệt trong hai đến ba năm sau thời kỳ này.
Thật vậy sự giảm oestrogène tạo điều kiện cho hoạt động của các hủy cốt bào (ostéoclaste : những tế bào phá hủy xương). Khi những yếu tố nguy cơ khác được thêm vào, mật độ và cấu trúc của xương có thể bị biến đổi và làm cho nó dễ vỡ hơn : chứng loãng xương được nhận thấy ở 30% các phụ nữ ở tuổi 65 và 60% những phụ nữ trên 80 : một phụ nữ trên hai. Hơn một phụ nữ trên hai sẽ bị gãy xương sau thời kỳ mãn kinh.
TÁC ĐỘNG NGAY TỪ TUỔI ẤU THƠ.
Mặc dầu không thể tái tạo xương bị chứng loãng xương làm hỏng, nhưng vẫn luôn luôn có thể làm chậm lại nhịp mất xương tự nhiên và làm hoãn lại những hậu quả của nó bằng cách tác động lên những yếu tố nguy cơ, ngay từ tuổi ấu thơ, để có một vốn xương vững chắc. Vốn xương (capital osseux) này có thể được duy trì suốt trong cuộc sống bằng một sự tiêu thụ thích đáng calcium, liên kết với một hoạt động vật lý đều đặn. Không bao giờ quá muộn khi bắt đầu loại can thiệp này nhằm tạo điều kiện để duy trì khối lượng xương, ngay cả sau thời kỳ mãn kinh. Khi những yếu tố nguy cơ khác được nhận diện (một người mẹ đã từng bị một gãy cổ xương đùi, một điều trị dài lâu bằng corticoides hay một điều trị với anti-aromatase liên quan với một ung thư vú), nên đo mật độ xương (densité osseuse). ” Không nên làm densitométrie này quá sớm bởi vì nó có thể bỏ sót một chứng loãng xương phát khởi muộn hơn “, BS Cormier đã chỉ rõ như vậy.
Ngoài ra, những thuốc bảo vệ xương không được kê đơn quá lâu : những điều trị thay thế hormone gia tăng trong thời gian trung hạn nguy cơ của vài ung thư và những biphosphate có nhiều tác dụng phụ, vậy phải dành chúng để bảo vệ một xương thật sự dễ vỡ.
Tuy nhiên, nhiều chiến lược bảo vệ xương có thể được thiết đặt, trước hoặc sau thời kỳ mãn kinh. Tránh ruợu hay thuốc lá, nhất là chúng là những yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh do tuổi già khác. Chế độ ăn uống là một tham số quan trọng : sự cung cấp calorie phải vẫn thường xuyên bằng những sản phẩm sữa và nước khoáng giàu canxi. Quá mức cà phê, muối và protéine cũng có hại bởi vì những thức ăn này tạo điều kiện cho sự thất thoát canxi trong nước tiểu. Sau cùng, nếu sự gầy gò quá mức là một yếu tố nguy cơ của chứng loãng xương, một sự lên cân quá quan trọng sẽ tạo điều kiện cho tình trạng bất hoạt và sự phá hủy của xương.
(LE FIGARO 8/6/2015)

3/ ĐIỀU TRỊ HORMONE : NGUY CƠ ĐƯỢC KIỂM SOÁT, NHỮNG LỢI ÍCH ĐƯỢC BIẾT RÕ
” Không thể để một bệnh nhân ra đi mà không có một giải pháp “, GS Anne Gompel, trưởng khoa nội tiết phụ khoa thuộc bệnh viện Cochin (Paris) đã nói như vậy. ” Tôi thấy đến những bệnh nhân cùng đường, thất vọng, đối với họ tỷ suất lợi ích/nguy cơ thuận lợi cho một điều trị hormone thay thế là rõ ràng, phù hợp với những khuyến nghị chính thức, thế mà thầy thuốc đã từ chối họ.”
Điều trị kích thích tố thay thế (THS : traitement hormonal substitutif) nhằm bù sự ngừng của hoạt động kích thích tố của các buồng trứng bằng cách cho những hormone để làm giảm bớt những tác dụng không được mong muốn của chứng mãn kinh. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng mình rằng những điều trị hormone này làm gia tăng nguy cơ mắc phải vài ung thư và những rối loạn tim mạch, điều này đã dẫn đến hạn chế sự sử dụng chúng cho những bệnh nhân mà chất lượng sống bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng. Những dữ kiện dịch tễ học đã cho phép định rõ những tác dụng có hại của những phương thức điều trị hormone thay thế khác nhau và hiệu chính những khuyến nghị để đề nghị một giải pháp cho các phụ nữ rất bị khó chịu bởi mãn kinh, với một nguy cơ giảm thiểu.
Một progestatif phải được liên kết với các oestrogène để làm giảm nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung và sự sử dụng progestérone hạn chế sự gia tăng của những ung thư nội mạc tử cung. Những điều trị này không làm gia tăng nguy cơ tim mạch nếu chúng được cho bằng đường qua da. Sự gia tăng của tất cả những nguy cơ này được giảm thiểu nếu điều trị vẫn ở liều thấp và trong thời gian ngắn, điều mà Bộ y tế đã khuyến nghị. Cơ quan này cũng định rõ rằng điều trị phải được kiểm tra mỗi năm : bằng cách ngừng vài ngày, có thể kiểm tra rằng những triệu chứng đã không biến mất, làm cho điều trị trở thành vô ích. Sau một điều trị ngắn, nguy cơ của tất cả những ung thư này xuống lại dần dần ở mức nguy cơ của toàn dân.
” Hôm nay, các thầy thuốc không nên sợ thiết đặt THS “theo kiểu Pháp” ; đối với phương cách này không có một sự gia tăng nguy cơ nào đã được chứng minh”, GS Gompel đã nhắc lại như vậy. Ngay chính bệnh nhân đôi khi có thái độ ngập ngừng. ” Phải có thể giải thích với họ một cách chính xác những nguy cơ nào được liên kết với điều trị nhưng cũng những điều mà nó mang lại”, GS Gompel, người tham gia vào Groupe d’étude sur la ménopause et le vieillissement mà site Internet có thể giúp các bệnh nhân và thầy thuốc chọn điều trị tốt.
(LE FIGARO 8/6/2015)

4/ ĐIỀU TRỊ HORMONE THAY THẾ VÀ NGUY CƠ UNG THƯ BUỒNG TRỨNG.
Năm 2002, Women’s Health Initiative, công trình nghiên cứu Hoa Kỳ đã theo dõi 160.000 phụ nữ mãn kinh trong ít nhất 15 năm, đã báo cáo một nguy cơ gia tăng ung thư vú, và một nguy cơ hơi gia tăng bị ung thư buồng trứng (ung thư hiếm hơn nhiều) ở những phụ nữ được điều trị bằng hormone thay thế (THS : hormonothérapie substitutive). Những kết quả này đã rất bị tranh cãi. Đại học Oxford (Anh) đã phát động một thử nghiệm mới tập trung vào nguy cơ ung thư buồng trứng. Hơn 100 nhà nghiên cứu đã được nhờ đến ở châu Âu, ở Hoa Kỳ và ở Úc để duyệt xét 52 công trình nghiên cứu dịch tễ học, tập hợp 21.488 phụ nữ bị bệnh ung thư này. Theo những kết quả của công trình nghiên cứu này, được công bố trong tạp chí “The Lancet”, những phụ nữ được điều trị THS từ dưới 5 năm có một nguy cơ bị ung thư buồng trứng gia tăng so với những người không được điều trị. Với THS từ hơn 5 năm, nguy cơ này tồn tại trong 10 năm.
(PARIS MATCH 26/2-4/3/2015)

5/ NHỮNG CHẤT GÂY Ô NHIỄM GIA TỐC THỜI KỲ MÃN KINH.
Những chất làm rối loạn nội tiết (perturbateur endocrinien) bị buộc tội gây nên một tai họa mới. Vài trong những chất này chống lại sự vận hành chức năng của các hormone có thể gia tăng sự mất tự nhiên khả năng sinh sản phụ nữ. Để đi đến kết luận này, kíp của Amber Cooper, thuộc đại học Colorado, đã nghiên cứu mối liên hệ giữa sự hiện diện, trong máu của hơn 30.000 phụ nữ, của một trăm chất hóa học khác nhau, và tuổi bắt đầu mãn kinh. Kết quả : đối với 15 trong số những sản phẩm hóa học này (thuốc trừ sâu, phtalane…), một nồng độ cao trong máu được liên kết với một mãn kinh khởi đầu trung bình 1,9 đến 3,8 năm sớm hơn. Mặc dầu thống kê này không đủ chứng minh phần trách nhiệm của những sản phẩm này, nó thêm vào những kết quả của hai công trình nghiên cứu khác theo chiều hướng này, cũng như những kết quả của một thí nghiệm trên các con chuột, khi được cho tiếp xúc với khí thoát diesel, thấy dự trữ buồng trứng của chúng bị giảm. Nếu tác dụng này được xác nhận, điều đó có nghĩa rằng những bệnh lý liên kết với bệnh mãn kinh (các bệnh tim mạch, chứng loãng xương…) cũng xảy ra sớm hơn.
(SCIENCE & VIE 4/2015)

6/ UNG THƯ VÚ : NHỮNG TRẮC NGHIỆM DI TRUYỀN ĐỂ ÍT SỬ DỤNG HÓA TRỊ HƠN
GS David Khayat, trưởng khoa ung thư học của bệnh viện Pitié-Salpetrière (Paris), giải thích sự phân tích gène cho phép những điều trị cá thể hóa (traitement sur mesure) như thế nào.
Hỏi : Ở Pháp ngày nay tần số của ung thư vú là gì ?
GS David Khayat : Ta thống kê 53.000 trường hợp mỗi năm nhưng, may mắn thay, nhờ được điều trị, 85% lành bệnh.
Hỏi : Theo kinh nghiệm của ông, với tư cách là thầy thuốc chuyên về ung thư, những yếu tố nguy cơ thật sự là gì ?
GS David Khayat : Những tiền sử ung thư trong gia đình, tuổi khá muộn khi có kinh nguyệt và mang thai lần đầu, chứng béo phì, tính chất giu giú ở nhà, một chế độ ăn uống quá nhiều mỡ và vài điều trị thay thế chứng mãn kinh. Ta thấy ít những ung thư này hơn ở những phụ nữ cho còn bú.
Hỏi : Trên những tiêu chuẩn nào ta xác lập một protocole điều trị ?
GS David Khayat : Kích thước của khối u, tính hung hãn của các tế bào, sự phụ thuộc hormone của chúng, sự cảm nhập hay không vùng nách hay những cơ quan khác. Ngoại khoa là chỉ định đầu tiên. Xạ trị được thực hiện khi vú được bảo tồn hay khi các hạch bị xâm chiếm. Tùy theo những tiêu chuẩn được xác lập, ta kê đơn một cách cổ điển một hóa trị hay một hormono-thérapie và đôi khi cả hai. Những liệu pháp nhắm đích (thérapie ciblée) đã đánh dấu một bước ngoặc trong điều trị những ung thư này, nhất là với trastuzumab (Herceptin) và pertuzumab (Perjeta) đối với những khối u HER2 và bévacizumab (Avastin) đối với những dạng khác.
Hỏi : Phải chăng ta đã có thể làm giảm những tác dụng phụ của hóa trị ?
GS David Khayat : Chúng luôn luôn nặng nề, mặc dầu những tiến bộ lớn trong những điều trị hỗ trợ cho phép tránh, trong đại đa số các trường hợp, nôn và mửa. Nhưng không tránh làm rụng tóc cũng như mệt. Những điều trị kháng hormone có thể làm lên cân, giảm dục tính, gây những vấn đề khớp, nhưng nói chung chúng tương hợp với sự tiếp tục điều trị. Những liệu pháp nhắm đích có một nguy cơ nhiễm độc tim rất thấp (với trastuzumab) và những rối loạn huyết quản (với bévacizumab).
Hỏi : Ta có biết là những hóa trị này, được kê đơn theo những protocole quy ước, có luôn luôn thích ứng với trường hợp của mỗi bệnh nhân ?
GS David Khayat : Chính để biết điều đó mà những trắc nghiệm di truyền ngày nay được thực hiện.
Hỏi : Những thông tin nào có thể mang lại cho chúng ta phân tích những gène này ?
GS David Khayat : Có 3 loại trắc nghiệm di truyền của ung thư vú : 1. Những trắc nghiệm cho phép xác định một nguồn gốc di truyền (các gia đình mang những bất thường của các gène BRCA1 và BRCA2). Sự tìm kiếm này được thực hiện từ một phân tích máu. 2. Những trắc nghiệm để biết một cách gần như chắc chắn là trường hợp của bệnh nhân có cần một điều trị hóa trị không. 3. Những trắc nghiệm chỉ những thuốc thích ứng nhất với ung thư của mỗi bệnh nhân.
Hỏi : Ta thực hiện những trắc nghiệm này như thế nào ?
GS David Khayat : Một mẫu nghiệm của khối u được lấy lúc mổ được gởi sang Hoa Kỳ trong một phòng xét nghiệm chuyên môn, trong đó người ta phân tích 21 gène hiện diện trong các nhiễm sắc thể của những tế bào ung thư. 15 ngày sau, thầy thuốc chuyên ung thư nhận các kết quả.
Hỏi : Những kết quả của những công trình nghiên cứu nào đã xác nhận với ông tính hữu ích của những phân tích này để cá thể hóa một điều trị?
GS David Khayat : Một công trình nghiên cứu ở Pháp, được thực hiện bởi GS Xavier Pivot, thầy thuốc chuyên khoa ung thư của CHU de Besançon trên 100 phụ nữ bị ung thư vú đã cho phép 70% những bệnh nhân này tránh một điều trị bằng hóa trị. Những công trình nghiên cứu quốc tế khác, được tiến hành trên hàng ngàn bệnh nhân, đã chứng mình rằng lúc thực hiện phân tích gène này ta đã có thể, trong 50% những trường hợp, tránh sử dụng một hóa trị. Với những thử nghiệm này, ta có, về xét nghiệm này, một thời gian nhìn lại từ 6 đến 7 năm
Hỏi : Ở Pháp, ở đâu ta có thể nhận những trắc nghiệm này nhằm tránh vài hóa trị ?
GS David Khayat : Fondation Avec (mà tôi là chủ tịch-sáng lập) cho phép 4 cơ sở của vùng Paris (những bệnh viện Pitié-Salpêtrière, Tenon, Fontainebleau và Clinique Hartmann) đề nghị trong khung cảnh thí nghiệm và với sự kê đơn của thầy thuốc, một sự tiếp cận miễn phí trắc nghiệm này đối với những bệnh nhân liên hệ. Sự phân tích các gène này đang được hiệu chính đối với những ung thư tiền liệt tuyến và có khả năng rằng chúng ta sẽ có đối với phần lớn các ung thư.
(PARIS MATCH 25/6/2015-1/7/2015)

7/ UNG THƯ VÚ : CHẨN ĐOÁN BẰNG TOMOSYNTHÈSE
Lúc chụp tuyến vú chuẩn (mammographie standard), cung cấp những phim chụp 2 chiều, cấu trúc rất dày đặc của tuyến vú có nguy cơ gây ra những hình ảnh không chắc chắn. Tomosynthèse, một kỹ thuật xuất hiện từ ba năm nay, cho những hình ảnh 3D, rõ nét hơn nhiều. Xác nhận những kết quả của những thử nghiệm Hoa Kỳ, một công trình nghiên cứu Thụy Điển của đại học Lund, ở Malmo (BS Sophia Zackrisson), được tiến hành ở 7500 phụ nữ tuổi từ 40 đến 74, vừa cho thấy rằng tomosynthèse phát hiện nhiều ung thư hơn nhiều so với chụp tuyến vú chuẩn. Với kỹ thuật này, tube à rayons X xoay chung quanh tuyến vú đồng thời vẽ một cung tròn và cho những cliché dưới những góc khác nhau mà ordinateur sẽ tái tạo thành 3D. Ở Hoa Kỳ, FDA đã chấp thuận phương pháp này.
(PARIS MATCH 4/6-10/6/2015)

8/ U XƠ TỬ CUNG : MỘT ĐIỀU TRỊ KHÔNG CẦN PHẢI MỔ
GS Philippe Bouchard, professeur émérite của đại học Pierre-et-Marie-Curie, consultant của khoa ngoại sản của bệnh viện Foch de Suresnes, trình bày những kết quả nghiên cứu mới nhất xác nhận tính hiệu quả của một điều trị có tác dụng nhanh .
Hỏi : Ông định nghĩa một u xơ tử cung (fibrome utérin) như thế nào ?
GS Philippe Bouchard : Đó là một khối u hiền tính phát triển ở thành cơ của tử cung. Có 3 loại : 1. U xơ dưới niêm mạc (sous-muqueux), nằm dưới niêm mạc của tử cung. 2. U xơ khoang kẽ (interstitiels), được hình thành trong bề dày của lớp cơ. 3. U xơ dưới thanh mạc (sous-séreux), lớn ra ngoài tử cung.
Hỏi : Những triệu chứng nào khiến nghi ngờ một u xơ tử cung.
GS Philippe Bouchard : những xuất huyết lập lại, có thể rất dồi dào lúc có kinh (nguyên nhân đầu tiên gây thiếu máu ở phụ nữ), nhất là trong trường hợp u xơ dưới niêm mạc (fibrome sous-muqueux).
Hỏi : Những điều trị quy ước là gì ?
GS Philippe Bouchard : 1. Khi sự định vị của u xơ cho phép : một điều trị thuốc với một progestatif, làm nghỉ sự tiết oestradiol cửa buồng trứng, nhiên liệu thật sự nuôi u xơ. 2. Phương pháp khác : những analogue de la GnRH cũng hủy bỏ sự sản xuất oestradiol. 3. Embolisation những động mạch tử cung để làm tắc động mạch nuôi tử cung.
Hỏi : Khi nào ta nhờ đến ngoại khoa ?
GS Philippe Bouchard : Ta xét đến nó trong trường hợp thất bại những điều trị hay khi u xơ quá lớn. Ngoại khoa có thể giới hạn vào u xơ (myomectomie) hay cần cắt bỏ toàn bộ tử cung (hystérectomie).
Hỏi : Những bất tiện nào đã dẫn đến hiệu chính một điều trị đổi mới ?
GS Philippe Bouchard : Chúng tôi đã nhận thấy rằng progesérone cũng là một nhiên liệu của u xơ ! Vậy hủy bỏ oestradiol với progestérone không còn là một điều trị thích hợp. Những chất tương cận của GnRH, hủy bỏ sự sản xuất oestradiol bởi buồng trứng, có bất tiện gây nên những triệu chứng của mãn kinh. Ngoại khoa bán phần bằng đường tự nhiên (hystéroscopie) chỉ được thực hiện trong vài trường hợp, tùy theo định vị của u xơ và kích thước của nó. Cắt bỏ tử cung là một phẫu thuật nặng nề dẫn đến vô sinh. Embolisation các động mạch có những chỉ định hạn chế và gây nên những nguy cơ sẩy thai.
Hỏi : Ông vừa trình bày ở Hội nghị quốc tế về sinh sản những kết quả của những công trình nghiên cứu mới đây xác nhận tính hiệu quả của một chiến lược cải tiến. Đó là loại thuốc gì ?
GS Philippe Bouchard : Acétate d’ulipristal (UPA), một chất điều biến những thụ thể của progestrérone.
Hỏi : UPA tác dụng lên một u xơ tử cung như thế nào ?
GS Philippe Bouchard : Nó phong bế những thụ thể (récepteur : cửa vào) của progestérone trong khối u ; không có nhiên liệu này, xuất huyết dừng lại. Ở những phụ nữ bị xuất huyết nhiều, một liều 5 mg mỗi ngày trong 3 tháng làm giảm một nửa thể tích của u xơ. Điều trị này không gây những tác dụng phụ. Sự tiết oestrogène bởi buồng trứng được bảo tồn.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu nào đã xác nhận tính hiệu quả của UPA ?
GS Philippe Bouchard : Vào năm 2012, ta đã có được một kinh nghiệm lúc sử dụng điều trị này trong 3 tháng trước khi thực hiện một phẫu thuật. Hai công trình nghiên cứu sau đó đã được thực hiện trên 1.500 phụ nữ, mà những kết quá tuyệt vời đã cho phép tiến hành những nghiên cứu lâu hơn. Công trình nghiên cứu mới nhất đã được công bố tháng giêng năm 2015.
Hỏi : Ông đã từng tham dự vào việc hiệu chính những protocole d’études, ông hay mô tả cho chúng tôi protocole của điều trị mới nhất này ?
GS Philippe Bouchard : Công trình nghiên cứu quốc tế này (được thực hiện trong 11 nước châu Âu, trong đó có Pháp) nhằm vào 451 phụ nữ. Những bệnh nhân này đã nhận mỗi ngày 5 mg UPA qua đường miệng, bằng những đợt 3 tháng cách nhau 2 tháng. Kết quả : đường kính của những fibrome đã giảm 70 đến 80%, những xuất huyết quá mức đã biến mất trong 90% các trường hợp và 70% những phụ nữ được điều trị đã không có kinh trong thời gian điều trị. Giữa mỗi liều điều trị, kinh nguyệt trở lại bình thường.
Hỏi : Những kết quả tốt này phải chăng sẽ cho phép thay thế nhưng điều trị quy ước ?
GS Philippe Bouchard : Cơ quan dược phẩm châu Âu vừa cho phép sử dụng không hạn chế loại thuốc này. Vậy nó sẽ có thể thay thế vài liệu pháp quy ước và cho phép giảm việc nhờ đến phẫu thuật.
(PARIS MATCH 18/6-24/6/2015)

9/ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG : HƯỚNG VỀ MỘT TAMPON CHẨN ĐOÁN ?
Trong khi lối vào cổ tử cung, khi thăm khám, là dễ dàng, thì trái lại lối vào bên trong tử cung (xoang tử cung) lại ít dễ hơn. Động tác sau này, xâm nhập hơn, không được thực hiện ở phòng khám bệnh. Các nhà nghiên cứu của bệnh viện Mayo (Rochester, Hoa Kỳ) đã phát minh ” tampon diagnostique”. Được đặt vào vị trí như một nút gạc vệ sinh (tampon hygiénique), tampon thấm dần dần những chất tiết âm đạo, trong đó có những tế bào được thải ra từ nội mạc của xoang tử cung. Các phụ nữ sau đó thu hồi tampon và gởi nó đến phòng xét nghiệm để phân tích. Một công trình nghiên cứu trên 38 phụ nữ bị ung thư cổ tử cung và 28 nguoi lành mạnh đã cho thấy rằng những phụ nữ bị ung thư cổ tử cung có, trong những résidu d’ADN thu được, những bất thường không có ở những phụ nữ lành mạnh.
(PARIS MATCH 25/6/2015-1/7/2015)

10/ VACCINCHỒNG PAPILLOMAVIRUS : KHÔNG CÓ NGUY CƠ BỊ BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC
Papillomavirus là nguồn gốc của hầu như toàn bộ những ung thư của cổ tử cung. Từ khi được đưa ra thị trường, năm 2006, Gardasil, vaccin rất hiệu quả, hơn 175 triệu liều đã được thực hiện. Tuy nhiên mức độ an toàn của nó đối với nguy cơ xuất hiện một bệnh tự miễn dịch, trong đó có bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques), đã bị nghi ngờ. OMS đã yêu cầu thực hiện một thử nghiệm quy mô lớn. Công trình này đã được thực hiện bởi sự công tác giữa viện Statens Serum của Đan Mạch và viện Karolinska của Thụy Điển, bao gồm gần 4 triệu phụ nữ. Không có khác nhau nào về nguy cơ thần kinh đã xuất hiện giữa những phụ nữ được tiêm chủng và những phụ nữ khác.
(PARIS MATCH 5/2-11/2/2015)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(5/9/2015)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

7 Responses to Thời sự y học số 379 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 500 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  2. Pingback: Thời sự y học số 504 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  3. Pingback: Thời sự y học số 509 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  4. Pingback: Thời sự y học số 521 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  5. Pingback: Thời sự y học số 581 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  6. Pingback: Thời sự y học số 592 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

  7. Pingback: Thời sự y học số 620 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s