Thời sự y học số 335 – BS Nguyễn Văn Thịnh

hardrontherapie carbon

1/ HADRONTHERAPIE CARBONE : MỘT VŨ KHÍ MỚI CHỐNG UNG THƯ.
Ở Lyon, một trung tâm chuyên khoa đợi đèn xanh của chính quyền để mở cửa.
CANCEROLOGIE. Có một kỹ thuật cải tiến cho phép chữa lành vài loại ung thư vẫn còn giết người. Kỹ thuật này là hadronthérapie aux ions carbone, còn được gọi là carbonethérapie. Hadronthérapie được biết tốt hơn ở Nhật Bản, là nơi kỹ thuật mới này có một sự phát triển quan trọng, ” Hadronthérapie nhằm gởi một chùm ions carbone đến khối u. Những ion này, một khi đến trong những tế bào ung thư, tạo nên những thương tổn nghiêm trọng ở vật liệu di truyền (matériel génétique) của chúng, hơn so với những điều trị khác. Bởi vì chúng có tác dụng mạnh và chùm ions carbone, được xác định một cách chính xác, nên những tế bào ung thư có thể bị nhắm một cách rất chính xác. Những tế bào ung thư này không chết tức thì, nhưng chúng không còn có khả năng tăng sinh nữa và mất tính bất tử của chúng. Trong một khoảng thời gian thay đổi tùy theo loại ung thư, khối u cuối cùng biến mất và ta có thể nói sự chữa lành thật sự “, Jean-Yves Giraud, docteur en physique médical, trưởng kíp vật lý y khoa của CHU de Grenoble đã giải thích như vậy.
Và chính hiệu quả đôi này (sự chính xác vật lý và khả năng tiêu hủy sinh học tăng cường của những tế bào được nhắm) làm cho carbonethérapie được sự chú ý, đặc biệt là đối với những ung thư đề kháng phóng xạ (tumeur radiorésistante).” Ta nói là những ung thư đề kháng phóng xạ khi chúng không bị trừ triệt với tia X liệu pháp cổ điển (radiothérapie classique), ít nhất với những liều được cho. Thật vậy, để được hiệu quả, phải nhờ đến những liều tia X không thể chịu được đối với cơ thể. Trong loại tình huống này, carbonethérapie có thể mang lại một giải pháp thay thế đáng lưu ý “, GS Jean-Léon Lagrange, thuộc khoa quang tuyến trị liệu của bệnh viện Henri-Mondor (Créteil) đã nhận xét như vậy.
Vả lại, những con số chứng tỏ điều đó. GS Jacques Balosso, trưởng khoa tia X liệu pháp thuộc CHU de Grenoble và là giám đốc của Groupement de coopération sanitaire Etoile, người đã ra sức cho sự sinh ra đời của trung tâm hydronthérapie đầu tiên của Pháp, nhắc lại rằng ” kỹ thuật này cho phép có được thêm 25% những trường hop chữa lành so với những liệu pháp quy ước trong vài ung thư rất đặc thù (chủ yếu những ung thư của đầu và cổ, những ung thư của các mô mềm và khung xương). Vậy đó đúng là một tiến bộ y khoa thật sự và vả lại, trong ứng thư học, thuốc và những liệu pháp khác cải thiện tỷ lệ chữa lành 25% so với liệu pháp quy chiếu chỉ đếm được trên đầu các ngón tay.
SỐ CÁC BUỔI ĐƯỢC GIẢM
Không chỉ trên bình diện tính hiệu quả mà hadronthérapie tốt hơn radiothérapie conventionnelle, luôn luôn đối với những chỉ định rất chính xác là những ung thư của các tuyến nước bọt, của các xoang mặt, của đáy sọ, của khung xương…” So với các tia X (radiothérapie) đi xuyên qua toàn bộ cơ thể và do đó phát xạ trên đường đi những tế bào lành m mạnh nh, những ion carbone dừng lại ở độ sâu mong muốn (nghĩa là ở khối u). Nói một cách khác, tất cả những tế bào lành mạnh ở vùng hạ lưu của khối u không bị phát xạ. Ngoài ra, những ion này có tác dụng tiêu hủy cực kỳ nhưng chỉ cuối lộ trình, ở những tế bào ung thư “, GS Balosso đã nhấn mạnh như vậy. Ý kiến này được chia xẻ bởi GS Lagrange : ” Sự kiện có thể phát xạ đến một độ sâu nào đó của da, mà không đụng đến những mô nằm ngay sau đó, là rất đáng lưu ý khi khối u nằm trước một cơ quan sinh tử mà ta muốn gìn giữ với bất cứ giá nào.”
Ở thượng nguồn, ngoài một sự nóng lên của da, có thể là do phản ứng viêm, những tế bào không bị thương tổn. Ngoài ra số những buổi carbonethérapie được giảm nhiều hơn so với số buổi cần thiết trong liệu pháp tia X (radiothérapie). Và một hóa học liệu pháp bổ sung (chimiothérapie complémentaire) chỉ hiếm khi được đòi hỏi, như thế cũng ít gây mệt hơn đối với bệnh nhân. ” Sự dung nạp chung đối với hadronthérapie tốt hơn nhiều so với liệu pháp tia X vì trong trường hợp này các mô lân cận của khối u khá thường bị thương tổn. Sự dung nạp tốt hơn này được quan sát ngay sau điều trị, nhưng chúng cũng được nhận thấy về lâu về dài hơn : thật vậy, vì những tế bào lành mạnh không bị ảnh hưởng và vì những tế bào ung thư có ít cơ may sống còn, nên không có nguy cơ bị ung thư thứ phát, vì điều đó với liệu pháp tia X đôi khi cũng đáng sợ “, GS Balosso đã xác nhận như vậy.
Dầu Hadronthérapie gay quan tâm như thế nào, tuy vậy đó không phải là một liệu pháp nhiệm màu đối với tất cả những ung thư, mặc dầu sự nghiên cứu đang được tiếp tục, đặc biệt ở Nhật Bản, nơi đây những nhà ung thư học quan tâm đến lợi ích tiềm tàng của hadronthérapie trong những khối u lớn của khung chậu và các chi. Giới hạn là rõ ràng : không có một lý do nào phải nhờ đến kỹ thuật mũi nhọn này (hadronthérapie) nếu những điều trị khác đã chứng tỏ có hiệu quả và cho những kết quả tốt. Chính vì vậy chỉ một số nhỏ những bệnh lý ít gặp (những dẫu sao liên quan đến khoảng 1300 bệnh nhân mỗi năm ở Pháp) và đối với chúng hôm nay ta có một mức chứng cớ đủ về tính hiệu quả của hadronthérapie carbone, có thể nhận liệu pháp điều trị này trong thì đầu. Cũng chính vì vậy mà một trung tâm duy nhất ở Pháp cũng đủ để đáp ứng nhu cầu này.
(LE FIGARO 4/11/2013)

2/ HYDRONTHERAPIE CARBONE : MỘT TRUNG TÂM QUỐC GIA Ở PHÁP SẼ MỞ VÀO LÚC NÀO ?
Đã cách nay nhiều năm, các thầy thuốc tia X trị liệu (radiothérapeute) đã có trong đầu ý nghĩa rằng hadronthérapie có thể cho phép họ làm việc điều trị các ung thư tiến triển. Còn cách nay khoảng 10 năm, cái kềm hãm chính là chính kỹ thuật : đã cần phải có thời gian để các máy ” được phổ biến” đồng thời giành được mức độ đáng tin cậy (fiabilité). ” Nhưng từ 3 hay 4 năm nay, những máy được được chế tạo một cách tiêu chuẩn hóa, GS Jacques Balosso, trưởng khoa tia X trị liệu của CHU de Grenoble và giám đốc của Groupement de coopération sanitaire Etoile, đã đảm bảo như vậy.Vào tháng 10 năm 2010, bộ trưởng Y tế đã yêu cầu chúng tôi làm việc về một dự án thành lập trung tâm được mệnh danh ” Centre Etoile” ở Lyon, sẽ là trung tâm carbonethérapie đầu tiên và duy nhất ở Pháp được mở cho những điều trị thường quy. Tất cả những điều kiện mà viên bộ trưởng y tế này mong muốn đã được hội đủ : trong khung cảnh nghiên cứu lâm sàng, chúng tôi đã bắt đầu gởi và theo dõi những bệnh nhân khả dĩ nhận liệu pháp carbonethérapie ở ngoại quốc (ở Đức). Chúng tôi cũng đã đưa ra một lời kêu gọi những đề nghị để một tập đoàn các nhà công nghiệp quan tâm đến dự án là làm cho nó có thể thực hiện,và từ nay điều này trở thành hiện thực. Vậy chúng tôi chờ đợi một bilan được rút ra từ những công trình của chúng tôi và một quyết định được thông qua bởi nhà nước về Centre Etoile tương lai ở Lyon.”
Các nhà lâm sàng và cac nhà công nghiệp đã không phải là những người duy nhất điều nghiên về vấn đề này.”Nhiều buổi họp giữa các nhà vật lý và tia X trị liệu đã sinh ra một master de physique médicale ở Lyon và Grenoble, nhằm đảm bảo một sự đào tạo có chất lượng trong bộ môn này và tạo điều kiện cho sự thực hiện những công trình luận án khoa học, thí dụ đối với sự phát triển những phương pháp chụp hình ảnh mới, cho phép theo điều trị tốt hơn trong khi thực hiện nó “, Jean-Yves Giraud, trưởng kíp vập lý y khoa của CHU de Grenoble đã xác nhận như vậy. Hơn 20 kíp nghiên cứu của Pháp đã tham gia vào những cố gắng nghiên cứu về sự tối ưu hóa kỹ thuật (optimisation technologique).
Nếu Bộ y tế bật đèn xanh, sự xây dựng trung tâm có thể bắt đầu trong một năm nữa và nó sẽ hoạt động từ nay đến 2018-2019. ” Điều đó có thể lâu, nhưng phải biết rõ rằng một accélérateur de particules (dầu đó là những ion carbone như trong trường hợp này hay những particule khác) là rất to lớn ! Trong trường hợp này, đó là một công cụ điện tử rất lớn chiếm một diện tích khoảng 1000m2. Tuy vậy tính chất kỹ thuật (technicité) không phải là một cái hãm. Những nhà công nghiệp Pháp của chúng tôi có một sự thành thạo thật sự trong lãnh vực này”, Jean-Yves Giraud đã ghi nhận như vậy. Thật vậy, đất nước của chúng tôi đã đi đầu với những trung tâm protonthérapie, một kỹ thuật khá tương cận và được sử dụng để điều trị những ung thư của đáy sọ, của cột sống hay của mặt.” Cùng liều lượng vật lý tương đương được phát ra, hiệu quả sinh học của carbonethérapie khoảng hai lần mạnh hơn hiệu quả có được đối với protonthérapie, do đó ta hiểu rõ lợi ích và tính chất bổ sung của nó.” GS Jean Léon Lagrange, thuộc khoa liệu pháp tia X thuộc bệnh viện Henri-Mondor (Créteil) đã nhấn mạnh như vậy.
Một ý kiến được chia xẻ bởi GS Balosso, đối với ông ” vậy ngoài lợi ích y khoa không thể chối cãi của hadronthérapie, nước Pháp có thể nắm được kỹ thuật y khoa, có khả năng cứu các mạng sống và sinh ra nhiều việc làm ”
Thế mà cần phải thực hiện tương đối nhanh. Bởi vì trong cuộc chạy đua kỹ thuật, Nhật Bản, Đức, Ý và Áo không chờ chúng ta quyết định. Họ tiếp tục tiến lên.
(LE FIGARO 4/11/2013)

3/ HYDRONTHERAPIE CARBONE : MỘT KỸ THUẬT DÀNH CHO VÀI LOẠI UNG THƯ.
Sau các con số, có những bệnh nhân, những người bị thất bại với mọi điều trị và đối với họ hadronthérapie là hy vọng cuối cùng…Sự rọi một chùm ion carbone vào vài u ung thư cho phép gia tăng 25% tỷ lệ chữa lành, so với những kết quả có được của cùng những khối u này với những điều trị tốt nhất hiện có. Mặc dầu điều đó chủ yếu liên quan đến những khối u ít gặp, nhưng mỗi năm, có đến 1.300 người Pháp có thể hướng được kỹ thuật cải tiến này với hy vọng một sự chữa lành thật sự đối với khoảng 900 người trong số họ. Nếu biết rằng trên 900 bệnh nhân này, một vài không có một hy vọng nào khác (bởi vì thất bại mọi điều trị), thì cũng bấy nhiêu cuộc sống sẽ cứu được, bấy nhiêu nỗi khổ và những điều trị tốn kém sẽ tránh được.
LỜI CHỨNG CỦA ELIANE K.
” Tôi thuộc về những bệnh nhân mà tất cả đã đều được thử và không còn có một hy vọng nào nữa, Eliane K đã làm chứng như vậy. Eliane K bị một ung thư của một xoang mặt (sinus) cực kỳ đề kháng, khiến cô ta phải chịu 7 cuộc mồ và 33 buổi liệu pháp tia X rất khó chịu đựng được vì chúng diễn ra ở mặt. Sau buổi liệu pháp tia X đầu tiên, tôi cảm thấy ốm nặng hơn, với một mùi khét nồng nặc và dai dằng trong miệng, một sự khó ở nặng, một cảm giác muốn mửa, đau ở tai và quanh mắt, một trái tim đập gia tốc.
” Buổi chiếu liệu pháp tia X tiếp theo : lưỡi của tôi bị bỏng dữ dội và đau họng ghê gớm cũng như đau ở tai. Tôi khó mà nuốt được vì tôi quá đau… Từ 2003 đến 2011, tôi không ngớt với căn bệnh : những can thiệp nối tiếp nhau và đã phải chấp nhận rằng điều trị bằng liệu pháp tia X cổ điển đã thất bại. Cuối năm 2011, người ta đề nghị với tôi một điều trị đầy hứa hẹn ở Đức. Vì không còn có gì để mất cả, tôi chấp nhận với nghị lực của sự thất vọng. Nhưng giữa tháng giêng và tháng tư 2012, vì không có trung tâm hadronthérapie ở Pháp, tôi phải tranh đấu để có được giấy phép.
” Tất cả đều bị bế tắc cho đến khi tôi có được sự giám định hồ sơ của tôi và một giấy chứng nhận chỉ rằng tôi thuộc về một chỉ định chính thức hadronthérapie. Kể từ đó, tất cả diễn biến nối tiếp nhau. Tôi đến Đức vào tháng tư 2012 và điều trị của tôi được theo đuổi cho đến cuối tháng năm. Ngoài việc mang một masque trong buổi trị liệu và có thể hơi ngột ngạt, chính ngày và đêm bên cạnh những buổi liệu pháp tia X mà tôi đã nhận trước đây : tôi không nhận thấy một đau đớn và mệt nhọc nào (vả lại tôi tiếp tục làm việc qua Internet ngoài những buổi điều trị).
” Trong thời gian lưu lại để điều trị, tôi đã tranh luận với nhiều bệnh nhân được điều trị bằng hadronthérapie carbone và mọi người đều công nhận tính chất dễ dàng của điều trị. Ngoài sự dung nạp, liệu pháp này sau cùng đã cho phép một sự đảo ngược hoàn toàn tình hình của tôi : sự chuyển từ niềm tin bị kết án đến sự chắc chắn của một niềm hy vọng.”
Lời chứng này không làm ngạc nhiên bao nhiêu GS Jacques Balosso, trưởng khoa liệu pháp tia X của CHU de Grenoble và giám đốc của Groupement de coopération sanitaire Etoile. ” Điều trị được thực hiện ngoại trú và gồm 4 đến 16 buổi, 20 đến 30 phút mỗi buổi (tối đa 24 buổi) kéo dài trong 3 đến 4 tuần. Ngắn hơn nhiều so với một liệu pháp tia X cổ điển : như vậy về mặt cá nhân lợi được về mặt sự thoải mái cuộc sống. Sau cùng, ở quy mô tập thể, do sự hiệu năng của nó, liệu pháp điều trị hiệu quả này hoàn toàn xóa sự tăng phí tổn ban đầu, đồng thời tránh nhiều chi phí y tế. Nói một cách khác, hadronthérapie có thể làm tốt hơn mà không thật sự tốn kém hơn.
(LE FIGARO 4/11/2013)

4/ HYDRONTHERAPIE CARBONE : MỘT ĐIỀU TRỊ MỚI CHỐNG UNG THƯ.
GS Jacques Balosso, trưởng khoa liệu pháp tia X của CHU de Grenoble, giảm đốc của Groupement de coopération sanitaire Etoile, giải thích tác dụng của vũ khí mới này chống lại những ung thư không thể mổ được, đề kháng với tia X liệu pháp hay hóa học liệu pháp.
Hỏi : Nguyên tắc của hadronthérapie chống ung thư là gì ?
GS Jacques Balosso. Kỹ thuật liệu pháp tia X nhắm đích (radiothérapie ciblée) này sử dụng những hạt nhân nguyên tử nhẹ, những ion carbone có khả năng đi vào trong một u ung thư với một tốc độ cực kỳ để dừng lại ở một độ sâu được xác định trước một cách rất chính xác. Ở đó, vào cuối lộ trình, chúng phát ra những liều năng lượng cực đại nhằm phá hủy những tế bào ung thư đồng thời giữ gìn những mô lành mạnh chung quanh. Điều này đặc biệt quan trọng khi khối u nằm trước hay bên cạnh một cơ quan sinh tử.
Hỏi : Trong những trường hợp nào, ta xét đến liệu pháp tia X nhắm đích mới này ?
GS Jacques Balosso. Liệu pháp tia X này được dành để điều trị những ung thư không thể mổ được (bởi vì chúng nằm ở vị trí rất không thuận lợi, như những ung thư phát triển trong vài cấu trúc xương như đáy sọ) và nhất là đề kháng với tia X (radiorésistant).
Hỏi : Để thay thế dao mổ, có những liệu pháp tia X nhắm đích khác : GammaKnife đối với những u của não, Cyberknife đối với những u của phổi và của gan, hay những proton ở trẻ em… Ưu điểm của hadronthérapie carbone là gì ?
GS Jacques Balosso. Liệu pháp này có khả năng phá hủy những khối u đề kháng nhất bởi vì sự tập trung vi thể của năng lượng trong các tế bào ung thư là 100 lần lớn hơn năng lượng phát ra với những kỹ thuật khác.
Hỏi : Hadronthérapie được chỉ định chủ yếu đối với những khối u nào ?
GS Jacques Balosso. Chủ yếu để điều trị những khối u đề kháng tia X hay đề kháng hóa học liệu pháp của đầu, cổ, cột sống, khung chậu, các chi, các sarcome và vài khối u của gan hay của phổi đa đề kháng với một điều trị quy ước chống ung thư.
Hỏi : Trong những trường hợp nào, phương pháp này không thể được xét đến ?
GS Jacques Balosso. Trước hết phải bắt đầu với những điều trị quy ước hiệu quả. Chỉ trong trường hợp thất bại những protocole cổ điển mà ta có thể nhờ đến, trong vài trường hợp, kỹ thuật liệu pháp tia X mới này. Khi những khối u không đơn độc (trong trường hợp những ung thư di căn), điều trị thuộc về những protocole khác.
Hỏi : Phải cần bao nhiêu thời gian để chứng thực tính hiệu quả của điều trị bằng một thăm khám chụp hình ảnh ?
GS Jacques Balosso. Những khối u đề kháng thường có một sự tăng trưởng chậm và, do đó, kết quả có được một cách từ từ, sau 3 đến 12 tháng tùy theo trường hợp.
Hỏi : Những kết quả nào ta có được với điều trị mới này ?
GS Jacques Balosso. Những kết quả được công bố đều đều trong ” International Journal of Radiation Oncology Biology-Physics “, ” Radiotherapy and Oncology ” và ” International Journal of Clinical Oncology”. Những tài liệu này đã cho thấy một sự gia tăng từ 20 đến 25% những cơ may chữa lành. Một khối u mà ta từng phá hủy trong 50% các trường hợp có thể, với kỹ thuật này, trong 75% các trường hợp. Đó là một tiến bộ đáng kể.
Hỏi : Thời gian nhìn lại với hadronthérapie carbone ?
GS Jacques Balosso. Những điều trị đã được thực hiện ở hơn 10000 bệnh nhân. Chúng được bắt đầu vào năm 1994 ở Nhật bản và vào năm 1998 ở châu Âu : ở Đức, ở Darmstadt, rồi ở Heidelberg. Ở Ý, ở Pavie. Một trung tâm, ở Áo, sẽ hoạt động năm 2017. Một trung tâm khác sẽ mở cửa ở Wurzburg, ở Đức, trong vài tháng nữa.
Hỏi : Ở Pháp khi nào ta có thể hy vọng nhận được điều trị này ?
GS Jacques Balosso. Có một dự án : Centre Etoile, ở Lyon, dành cho sự sử dụng hadronthérapie mà thôi. Hiện nay nó đang chờ sự chấp thuận của nhà nước. Trung tâm này sẽ tiếp nhận đến 2000 bệnh nhân mỗi năm. Một con số đủ để có thể điều trị tất cả những bệnh nhân ở Pháp.
Hỏi : Sau khi nhận được sự cho phép của nhà nước, cần bao nhiêu thời gian để trung tâm này có thể hoạt động ?
GS Jacques Balosso. Khoảng 4 đến 5 năm trước khi trung tâm có thể mở cửa. Có rất nhiều giấy phép khác nhau và sự xây dụng cần 2 đến 3 năm. Những thử nghiệm và hiệu chính trước khi mở cửa đòi hỏi thêm khoảng một năm nữa.
(PARIS MATCH 28/11-4/12/2013)

5/ HƯỚNG VỀ NHIỀU TRƯỜNG HỢP CHỮA LÀNH HƠN ĐỐI VỚI BỆNH VIÊM GAN C.
Từ này đến tháng tư 2014, hai điều trị mới chống viêm gan C sẽ được cho phép ở Pháp. Đó là những đại diện đầu tiên của một thế hệ mới những loại thuốc. Một niềm hy vọng cho 230.000 người Pháp bị đau bệnh gan này.
Hôm nay điều trị viêm gan C cần một sự phối hợp của ba loại thuốc, cho phép chữa lành từ 50 đến 70% những bệnh nhân. Đối với những bệnh nhân khác, gan tiếp tục bị hủy hoại, với một nguy cơ về lâu về dài bị xơ gan hay ung thư gan. Do đó những loại thuốc mới đã được mong chờ. Và sự xuất hiện của những điều trị mới này đang thay đổi tình thế. Thật vậy, được dùng phối hợp với các loại thuốc hiện nay, hai loại thuốc mới (sofobuvir và siméprévir) làm tỷ lệ chữa lành leo lên 90%. Vậy tất cả các bệnh nhân đều có thể hy vọng chữa lành. Và tương lai nhiều hứa hẹn, bởi vì những nghiên cứu nhằm vào những phối hợp khả dĩ khác và những thuốc thí nghiệm khác cho thấy những kết quả cũng đáng phấn khởi.
NHỮNG THUỐC ĐƯỢC DUNG NẠP TỐT HƠN.
Sự dung nạp kém của điều trị hiện nay là một vấn đề thật sự. Lý do : một trong những thuốc chống virus được sử dụng (interféron) làm bệnh nhân rất mệt, gây mất ngủ và mất tinh thần hay mất ăn ngon quan trọng… ở 30 đến 70% những người được điều trị. Điều này thường gây trở ngại cho cuộc sống và thậm chí phải nghỉ việc trong 6 đến 12 tháng. Kết quả : cứ hai bệnh nhân thì có một gạt đi lúc phải điều trị và 10 đến 20% bỏ thuốc nửa chừng, bởi vì độc hay khó quản lý. Thật vậy điều trị cần tiêm dưới da mỗi tuần.
NHỮNG ĐIỀU TRỊ NGẮN HƠN
Hai loại thuốc mới có thể có những tác dụng khó chịu tương tự, nhưng ít dữ dội hơn và ở ít những bệnh nhân hơn. Ngoài ra, ta không luôn luôn buộc phải kết hợp chúng với interféron. Trong trường hợp này, và lần đầu tiên, điều trị viêm gan C có thể cho phép tiếp tục một cuộc sống bình thường.
Hàng ngàn những bệnh nhân vốn có một chống chỉ định đối với interféron sau cùng sẽ có thể được điều trị. Ưu điểm khác của những thuốc mới : sử dụng chúng đơn giản hơn. Trước hết, bởi vì thay vì 6 đến 8 viên mỗi ngày, ta sẽ chuyển qua một viên duy nhất gồm sự phối hợp cần thiết. Sau đó, bởi vì thời gian điều trị, mặc dầu thay đổi tùy theo sous-type để virus gây bệnh, và do đó tùy theo loại thuốc được cho, nhưng sẽ không bao giờ trên 6 tháng. Trong vài trường hợp, 3 tháng cũng đủ.
Vậy số những trường hợp chữa lành sẽ gia tăng trong những năm đến, và số những trường hợp tử vong do những biến chứng của bệnh viêm gan này (2500 mỗi năm) sẽ sụt giảm. Vậy hơn bao giờ hết đó là lúc cần phải được điều tra phát hiện, nhất là nếu ta đã bị một phẫu thuật trước năm 1990, hay nếu ta đã “thưởng thức” một thuốc ma túy tiêm hay hít (sniffée), ngay cả chỉ một lần thôi ! Một phân tích máu cho thấy một nồng độ transaminase gan tăng cao, ngay cả vừa phải, cũng là một động cơ tốt để được phát hiện.
(TOP SANTE 3/2014)

6/ NHỮNG THẦY THUỐC NỮ PHẢI CHĂNG LÀ GIỎI HƠN NHỮNG THẦY THUỐC NAM ?
Những thầy thuốc nữ thực hiện ít những động tác kỹ thuật (acte) hơn so với những đồng nghiệp nam và chú ý đến những bệnh nhân của mình hơn.
COMPORTEMENTS. Tương lai của y khoa sẽ thuộc về nữ giới. Đó là một sự kiện. Ngay cả hôm nay, gần một nửa những thầy thuốc hành nghề ở Pháp là các phụ nữ và, ở chân trời 2020, các phụ nữ sẽ chiếm đa số trong nghề y tế. Sự đi đến ồ ạt của các phụ nữ báo hiệu sự biến mất của những thầy thuốc có mặt vào bất cứ lúc nào ngày và đêm. Tiến triển này không chỉ xảy ra ở Pháp và làm nảy sinh một số lo sợ nào đó về chất lượng của những điều trị. Thế mà, như một công trình nghiên cứu của Québec vừa chứng tỏ, mặc dầu những thầy thuốc nữ ít “productive” (sinh lợi) hơn các thầy thuốc nam, nhưng họ mang lại những săn sóc tốt hơn.
Để đi đến kết luận này, kíp nghiên cứu của đại học Montréal đã khảo sát hành vi của 870 thầy thuốc gia đình đảm nhận điều trị những bệnh nhân đái đường. Để có thể đánh giá chất lượng điều trị, các nhà nghiên cứu đã căn cứ trên những khuyến nghị của Association canadienne de diabète. ” Các bác sĩ nữ có được những điểm số (score) cao hơn một cách đáng kể về mặt tuân theo những hướng dẫn thực hành. Họ đông hơn những thầy thuốc nam giới khi kê đơn những loại thuốc được khuyến nghị và lúc hoạch định những thăm dò được đòi hỏi “, tác giả chính của công trình nghiên cứu, Valérie Martel, đã giải thích như vậy. 3 phụ nữ trên 4 đã yêu cầu bệnh nhân của mình đi khám mắt, so với 70% những đồng nghiệp nam ; 71% các thầy thuốc nữ này đã kê đơn những thuốc được khuyến nghị, so với 67% những người đàn ông.
Do đó xác nhận rằng các thầy thuốc nữ thực hành một y khoa tốt hơn khiến vài người không chấp nhận. ” Chất lượng của điều trị không phải tóm lượt vào sự tuân theo những quy phạm, sự thỏa mãn của bệnh nhân cũng là một tiêu chuẩn quyết định “, GS Vincent Renard, chủ tịch của collège national des généralistes enseignants đã giải thích như vậy. Sự thỏa mãn này phần lớn tùy thuộc vào typologie của các bệnh nhân. Thế mà công trình nghiên cứu Québec không quan tâm chúng một chút nào.
Vẫn theo công trình nghiên cứu này của đại học Montréal, lúc khai báo mỗi năm 1000 động tác kỹ thuật (acte) ít hơn so với các đồng nghiệp nam, các thầy thuốc nữ có vẻ ít sinh lợi (productive) một cách rõ rệt. Một sự khác nhau đáng kể được nêu lên ở Pháp. Theo một điều tra của Bộ tháng ba năm 2012, các thầy thuốc đa khoa nữ của Pháp thực hiện trung bình 4150 lần khám bệnh (consultation) và visite mỗi năm, hoặc 24% ít hơn so với những đồng nghiệp nam (5440) và khai báo làm việc trung bình 53 giờ mỗi tuần, hoặc giờ ít hơn so với đồng nghiệp nam. Sự chênh lệch thời gian làm việc này tự nó không giải thích sự chênh lệch volume d’activité giữa đàn ông và phụ nữ.
Lý do nằm ở thời gian khám bệnh dài hơn của các thầy thuốc nữ (19 phút so với 17 đối với thầy thuốc nam). Gần 6 thầy thuốc nữ trên 10 khai báo thời gian khám bệnh 20 phút hoặc hơn, so với 35% những đồng nghiệp nam. ” Những thầy thuốc nữ dùng nhiều thời gian hơn để giải thích, khuyên nhủ. Họ có một tính tốt là biết lắng nghe và có một ưu tư sư phạm “, BS Christine Bertin-Belot, đại diện hội phụ nữ, médecin libéral, đã phân tích như vậy.
Không có những công trình nghiên cứu của Pháp về chủ đề này, tuy vậy nhiều thầy thuốc nữ tin chắc rằng họ không tiếp cận các bệnh nhân theo cùng cách.” Những thầy thuốc nam tập trung nhiều hơn vào bệnh lý, những thầy thuốc nữ điều trị bệnh nhân và môi trường của họ. Các thầy thuốc nữ sẽ xét đến tất cả những khía cạnh của con người bệnh nhân đối diện với họ “, Nicole Bez, phụ trách mission femmes médecins MG France (công đoàn các thầy thuốc đa khoa), đã nhấn mạnh như vậy. ” Và ta có thể suy diễn rằng một bệnh nhân được nghe sẽ thỏa mãn hơn và sẽ đến khám chúng ta ít hơn “, Christine Bertin-Belot đã nhấn mạnh như vậy.
Đối với GS Vincent Renard thì mối liên hệ thầy thuốc-bệnh nhân trước hết là một vấn đề personalité chứ không phải là vấn để giới tính. ” Sự nữ hóa nghề nghiệp (féminisation de la professsion) chắc chắn sẽ mang lại một sự năng động và những thay đổi sâu xa trong những hành vi. Chúng ta thấy một cách rõ ràng một biến đổi cơ cấu trong hành vi của những thế hệ thầy thuốc mới. Nhưng không thể xác nhận rằng những thay đổi này duy nhất là do sự nữ hóa. Sự giảng dạy các thầy thuốc cũng đã chịu một cuộc cách mạng thật sự “, chủ tịch collège national des généralistes enseignants đã đánh giá như vậy.
Đối với ông, sự thực hành của các thầy thuốc đa khoa trẻ thuần nhất hơn so với sự thực hành của những thầy thuốc lớp trước bởi vì từ nay họ được đào tạo trong một filière spécifique và đã không bao giờ được trang bị tốt như thế để đối phó với tính chất phức tạp của việc xử trí bệnh nhân. Qua đó, bệnh nhân cũng lợi được nhiều.
(LE FIGARO 28/10/2013)

7/ VITAMINE D KHÔNG PHẢI LÀ MỘT HORMONE NHIỆM MÀU
Mặc dầu có tất cả những đặc tính, nhưng việc cho bổ sung vitamine D trên thực tế sẽ không có một tính hiệu quả nào trong sự phòng ngừa những bệnh không phải do xương (maladie non squelettique).
SUPPLEMENTATION. Khi ta bị cúm, ta không buộc tội vẻ mặt thiếu nào của mình đã làm chúng ta bị bệnh. Cũng như vậy đối với sự thiếu hụt vitamine D, theo một công trình của những nhà nghiên cứu Lyon, được công bố trong The Lancet Diabetes & Endocrinology.
Từ nhiều chục năm nay, ta biết tầm quan trọng của vitamine này đối với sự hấp thụ của calcium, vậy vai trò của nó trong sự tăng trưởng của xương và thành phần cơ của nó. Nhưng vài tác giả cùng gán cho nó tất cả những đặc tính : từ những bệnh tim mạch đến các loại ung thư, qua bệnh xơ cứng rải rác hay bệnh Alzheimer …không một tháng nào trôi qua mà không có một công trình nghiên cứu xác lập giữa những rối loạn không phải do xương khác nhau này với sự thiếu hụt vitamine D.
Để thấy rõ hơn, các nhà dịch tễ học của IPRI (International Prevention Research Institute) ở Lyon đã tiến hành một duyệt xét quan trọng các tư liệu y học. 290 công trình nghiên cứu thăm dò (études prospectives) (người ta quan sát nồng độ của vitamine D ở những bệnh nhân bị những bệnh lý khác nhau) và 172 công trình nghiên cứu can thiệp (études d’intervention) (ta cho vitamine D và ta xem điều đó mang lại kết quả nào). Nếu những công trình nghiên cứu thứ nhất đã cho thấy một mối liên hệ thống kê giữa một tỷ lệ vitamine D thấp và tỷ lệ những bệnh được nêu trên, ngược lại, những công trình nghiên cứu thứ hai đã thất bại không chứng tỏ được rằng sự cho bổ sung vitamine D có một tác dụng bảo vệ.
Kết luận của các nhà dịch tễ học của IPRI : đối với tất cả những bệnh không phải xương, tỷ lệ vitamine D thấp chỉ là ” một chỉ dấu sinh học của tình trạng sức khỏe suy sút “. Được gây nên bởi những quá trình viêm can dự trong những bệnh lý này, sự thiếu hụt vitamine D không phải là nguyên nhân, nhưng chỉ là hậu quả của một tình trạng sức khỏe kém, vậy vô ích cho bổ sung toàn dân chúng. Thậm chí nguy hiểm, bởi vì vitamine D độc ở nồng độ cao và có thể gây nên một tăng canxi huyết.
Tuy vậy, những thành viên ưu tú của cộng đồng khoa học cổ vũ việc cho bổ sung, một bài báo của tạp chí nhắc lại với chúng ta như vậy. Tạp chí này đã công bố công trình nghiên cứu được chỉ đạo bởi GS Philippe Autier. Theo họ, nếu những công trình nghiên cứu không chứng tỏ tính hiệu quả của một sự cung cấp vitamine D, đó là bởi vì chúng không được tiến hành tốt (sự cho bố sung không thích đáng, những người cần cho không được chọn đúng…).
Vấn đề là ta khó xác định một liều lượng tối ưu vitamine D. Ngưỡng tối thiểu, dưới đó ta được cho là bị thiếu hụt, 75 mmol/l (hay 30 ng/l) đã được xác lập bởi một collège d’experts américains. ” Ở Hoa Kỳ, nhà dịch tễ học nổi giận, một nhóm những người có thế lực được tài trợ bởi industrie des cabines UV đã phát minh ý tưởng cho rằng ta bị thiếu hụt khi có nồng độ dưới 75 mmol/l. Nhưng với con số đó, hầu như 90% dân số bị thiếu hụt ! ”
Và ông nói thêm, vẻ châm biếm, rằng những trường hợp thiếu hụt vitamine D đã được nhận thấy ngay cả ở những surfeur trẻ tuổi ở Hawai.. Thế mà vitamine này đến với anh chủ yếu từ ánh nắng mặt trời, bởi vì sự tiếp xúc với các tia tử ngoại B (UVB) cho phép tổng hợp một cách tự nhiên vitamine D3 từ một dẫn xuất của cholestérol. Tuy vậy, không cần phải đi lại các cabine de bronzage : ” Đó là một vitamine tan trong mỡ, thầy thuốc chuyên khoa dinh dưỡng học Laurent Chevalier đã giải thích như vậy. Vậy mùa hè tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thường đủ cho phần còn lại của năm.” tTrong xã hội hiện đại của chúng ta ta càng ngày càng ít đi ra ngoài, ” thế mà về mặt sinh lý chúng ta được cấu tạo để sống ở ngoài trời “, BS Chevalier đã giải thích như vậy.
Nhưng phải cần một ít để thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta : tiếp xúc dưới 30 phút mỗi ngày với ánh sáng bên ngoài là đủ, mà không bị nguy cơ tổng hợp “quá nhiều” vitamine D. Sự tiếp xúc cần phải được điều biến tùy theo màu sắc của da và cao độ : ” phải chú ý đến những người có da sắc tố, Philippe Autier định rõ như vậy. Những người này khó tổng hợp bởi vì da của họ làm ngừng hơn nữa những tia tử ngoại B, nhất là ở những phụ nữ khi, vì những lý do văn hóa, mặc nhiều quần áo.” Nói một cách khác, trừ phi có da màu đen nhánh (peau ébène), trừ phi mặc quần áo từ đầu đến chân và sống ở Bắc cực… một người trưởng thành có sức khỏe tốt không hề cần bổ sung vitamine D. Tuy vậy, 50% những người trưởng thành ở Mỹ dùng vitamine D.
Dưới xa 75 nmol/l được ấn định bởi các chuyên gia Hoa Kỳ, Philippe Autier cho rằng ” dưới 30 nmol/l có lẽ đặt vấn đề và cần phải theo dõi sát “. Tuy nhiên không có vấn đề phải định lượng vitamine D toàn dân ! Vậy Bộ y tế đã nhắc lại tháng 10 vừa qua những quy tắc thực hành tốt : sự định lượng này chỉ cần thiết trong những trường hợp xác định “.Tuy vậy đó là một trong những xét nghiệm máu được bồi hoàn nhất bởi Assurance-maladie ! Thế mà, Véronique Coxam, nhà nghiên cứu ở Inra về micronutrition humaine, xác nhận ” sự định lượng vitamine D không đáng tin cậy lắm, và đối với cùng một định lượng ta sẽ có một sự biến thiên lớn từ phòng xét nghiệm này đến một phong xét nghiệm khác “.
Về việc cho bổ sung, ” những khuyến nghị hiện nay sẽ không thay đổi “, GS Autier đã đánh giá như vậy. Ở Pháp vitamine D được khuyến nghị ở những phụ nữ có thai hay cho bú, ở những trẻ nhỏ (cho đến 2 tuổi, thậm chí 5 tuổi đối với những trẻ da đen) và phối hợp với calcium, ở những người già sống ở những nhà dưỡng lão. Vắn tắt, tất cả những người có nhu cầu vitamine D gia tăng và ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
(LE FIGARO 13/1/2014)

8/ SOINS PALLIATIFS CHO PHÉP SỐNG TỐT HƠN CUỐI ĐỜI.Theo một thăm dò Ipsos-Fondation của Pháp, 65% những người Pháp cho là không được thông tin tốt.
FIN DE VIE. Cứ 3 người Pháp thì hai người cho là họ không được biết rõ về soins palliatifs đúng nghĩa là gì, theo điều tra Ipsos, được thực hiện vào tháng 9 năm 2013 cho Fondation de France. Đối với BS Francis Charhon, directeur général của cơ quan này và là thầy thuốc gây mê, ” người ta nghĩ ngay đến người sắp chết, nhưng soins palliatifs, đó là một tổng hợp của nhiều chuyện, thí dụ cũng quan tâm môi trường sống, những người thân cận “. Bởi vì đó không chỉ làm giảm đau, làm nguôi nỗi khổ tinh thần đồng thời gìn giữ phẩm cách của người bệnh, nhưng cũng hỗ trợ những người thân cận.
Trong khi ở Pháp 545.000 người chết mỗi năm, nhưng sự chết với tất cả những gì bao quanh nó vẫn còn là một bí ẩn lớn, có thể ngay cả còn hơn trước. ” Chúng ta đã mất sự quen thuộc với cái chết “, BS Véronique Blanchet, thầy thuốc chuyen khoa về đau và thành viên của kíp “douleur et soins palliatifs” ở bệnh viện Saint-Antoine, đã giải thích như vậy. Về phía các người điều trị và những người thân của bệnh nhân, BS Blanchet đã giải thích như vậy, đôi khi có yêu cầu đẩy nhanh những giây phút cuối cùng. Cái ý tưởng là phải tống khứ cái chết đi “. Dẫu thế nào đi nữa, phải làm nó biến mất đi.
Bằng cớ, ta chết ít hơn ở nhà mình. Ở Pháp, từ nay quy phạm là chết ở bệnh viện. Theo báo cáo 2011 của Observatoire national de la fin de vie (ONFV), 58% những người Pháp chết ở bệnh viện, 27% ở nhà và 11% trong một nhà dưỡng lão hay một nơi tương tự. Tuy vậy, 30 ngày trước khi chết, chỉ 30% các bệnh nhân ở bệnh viện và 81% những người Pháp, được hỏi bởi Ifop năm 2010, tuyên bố đã trải qua những giây phút cuối cùng ở nhà họ.
Comité consultatif national d’éthique (CCNE) đã nhấn mạnh sự tiến triển xã hội học của những thành kiến về điều được gọi là một cách để chết được tốt (une bonne manière de mourir) : ” Ngày xưa, phải chết khi vẫn còn ý thức, được nhiều người săn đón và được vũ trang để đương đầu với những “giây phút cuối cùng” ; ngày nay ta mong ước chết không đau đớn, những năng lực không bị biến đổi và nếu có thể một cách đột ngột và không ý thức.” Một sự tiến bộ, có lẽ, nhưng với một ý kiến trái lại. Thật vậy, bệnh viện thường là một phương tiện không thể tránh được vào cuối cuộc đời.
Những cuộc tranh luận rộng rãi trong những năm qua chung quanh lúc cuối cuộc đời có lẽ giải thích sự gia tăng đáng kể số những người Pháp nghĩ rằng những cơ cấu soins palliatifs là một câu trả lời cần thiết đối với sự đau khổ của những bệnh nhân bị bệnh nặng hay vào cuối đời. Theo thăm dò của Fondation de France, tỷ lệ này đã chuyển từ 57% vào năm 2009 lên 68% năm 2013.
Ngoài ra, cứ hai người Pháp thì có một (53%) cũng tin chắc rằng mọi người liên hệ có thể tiếp cận với soins palliatifs. Khả năng này, đúng là được dự kiến bởi luật, nhưng thực tế không hiện hữu khắp nơi.
” Những thông tin hiện hữu, BS Sarah Dauchy, trưởng département de soins de support của Institut Gustave-Roussy (Villejuif) đã giải thích như vậy, nhưng có một lúc, khi đó do bản năng tự vệ chống lại lo âu bị chết (angoisse de mort), ta không tìm kiếm chúng.”
” Tuy vậy có thể nói sớm về những điều có thể xảy đến, BS Aubry chủ tịch Observatoire national de la fin de vie và trưởng unité de soins palliatifs thuộc CHU de Besançon đã đảm bảo như vậy. Điều đó không thay đổi mối sợ hãi thần chết nhưng điều đó cho phép dự kiến và không làm bất ngờ người bệnh. ” Các bệnh nhân thường vấp phải bức tường làm an lòng mà người ta cố dựng lên giữa họ và sự chết. ” Cảm giác của tôi là các bệnh nhân cảm thấy rõ ràng không ai thành công nói duoc với họ về mức độ nghiêm trọng của căn bệnh và sự gần kế của cái chết, BS Banchet đã làm chứng như vậy.
(LE FIGARO 7/10/2013)
GHI CHÚ :
– Palliatif : làm giảm bớt những triệu chứng của một bệnh mà không tác động vào nguyên nhân của nó.
– Soins palliatifs (điều trị chữa tạm) : toàn bộ những hành động nhằm làm nhẹ bớt những triệu chứng của một căn bệnh trong đó, đặc biệt sự đau đớn mà căn bệnh này gây ra, nhưng không chữa lành nó. Những soins palliatifs đặc biệt được thực hiện ở những bệnh nhân trong giai đoan cuối của một bệnh nan y. Ngoài các ung thư, những bệnh thường nhất được đảm nhận bởi những unité de soins palliatifs là những bệnh thoái hóa thần kinh (sclérose latérale amyotrophique, chorée de Huntington) và sida.
– Accompagnement psychologique : cho phép chống lại tình trạng lo âu, trầm cảm, sự sợ hãi, sự giận dữ hay sự luyến tiếc khi chết gần kề, hay chống lại sự xấu hổ gây nên bởi cảm giác bất lực hay suy sút.

9/ SỰ CƯƠNG CỨNG CỦA CHỒNG TÔI PHẢI MẤT NHIỀU THỜI GIAN

Dr Catherine Solano
Médecin sexologue et andrologue
Hôpital Cochin, Paris

Thời gian mà sự cương cứng cần để biểu hiện trước hết tùy thuộc vào tuổi tác. Ở một chàng trai rất trẻ tuổi, sự cương cứng xuất hiện rất nhanh, đôi khi ngay cả điều này không được mong muốn ! Rồi với thời gian trôi qua, sự cương cứng trở nên xảy ra chậm hơn, bởi vì những động mạch, và những dây thần kinh, ít phản ứng hơn với thời gian. Thế thì, nếu cô đã lấy chồng từ lâu, có thể sự thay đổi này chỉ là chuyện tự nhiên..
Điều mà cô cần biết…
Ở tuổi thiếu niên (adolescent), một ý nghĩ cũng đủ để gây nên một sự cương cứng. Nhưng điều đó tiến triển. Hơi một ít về sau, một người đàn ông sẽ cần thấy người bạn gái của mình ăn mặc gợi cảm hay trần truồng để cho sự cương cứng của anh ta có cùng chất lượng. Vài năm hay vài thập niên về sau, anh ta sẽ phải còn sờ mó, vuốt ve người bạn gái của mình. Sau đó, dương vật của anh ta sẽ cần những vuốt ve lại còn gây kích thích hơn để một phản ứng cương tốt xuất hiện.
Những vấn đề sức khỏe có thể là nguyên nhân của những rối loạn cương. Vài bệnh, đặc biệt tim mạch, hay những bệnh lý liên quan đến tiền liệt tuyến (viêm tuyến tiền liệt, ung thư, cắt bỏ…) được liên kết với những rối loạn cương. Vì thế, nếu sau 50 tuổi, sự cương trở nên rõ rệt ít tốt hơn mà không có nguyên nhân nào, một bilan sức khỏe là cần thiết. Những động mạch ở dương vật, mảnh hơn, bị biến đổi sớm hơn những động mạch của tim (những động mạch vành) hay của não (những động mạch não). Vậy điều trị rất quan trọng, vì lẽ điều đó có thể cho phép ngăn ngừa một tai biến mạch máu não hay một nhồi máu cơ tim
Vài loại thuốc có thể có một ảnh hưởng âm tính lên phản xạ cương. Loại tác dụng phụ này được chỉ rõ trên notice. Nếu quả đúng như vậy, phải nói điều đó với thầy thuốc, sẽ có thể quyết định thay đổi điều trị, điều này có thể xảy ra trong phần lớn các trường hợp.
Tình trạng xúc cảm là một yếu tố cơ bản của sức khỏe sinh dục tốt. Nếu chồng cô đặc biệt bị căng thẳng từ ít lâu nay, hay nếu anh bị trầm cảm, điều đó có thể có một ảnh hưởng lên năng lực cương của anh. Trong trường hợp này, vậy phải tìm kiếm những giải pháp để giúp anh ta thư giãn và dịu đi.
Điều mà cô có thể làm…
Hãy kích thích anh ấy hơn nữa. Với tuổi tác, sự cương không những trở nên chậm hơn, nó cũng còn cần nhiều kích thích giác quan (stimulations sensorielles) hơn nữa, nhiều động tác vuốt ve hơn, để đạt một chất lượng như nhau và cho phép một giao hợp thỏa mãn.
Để sự cương xảy ra ở một người đàn ông lớn tuổi, vậy người bạn gái của ông ta phải tích cực hoạt động. Đó là một yếu tố rất quan trọng, bởi vì những người đàn ông mà người bạn gái không mang lại một động tác vuốt ve nào có thể nghĩ rằng họ bị rối loạn cương (dysfonction érectile), trong khi đó chỉ là một sự thiếu đáp ứng của lứa đôi đối với những thay đổi do tuổi tác.
Nếu tình huống này trở nên là một vấn đề, hãy khiến chống cô đi khám bệnh. Thầy thuốc có thể kê đơn cho anh ấy một loại thuốc để kích thích cương. Điều đó sẽ cho phép anh lấy lại niềm tin ở chính mình và anh ta nhanh chóng sẽ có thể không cần đến thuốc nữa. Nếu stress không phải là nguyên nhân, điều trị kích thích này có 70% cơ may giúp anh ta tìm lại một sự cương cứng thỏa mãn.
(TOP SANTE 3/2014)

10/ LHERMITTE, MỘT THẦY THUỐC THẦN KINH TRONG SỐ NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG.
tsyh335 5Không những chỉ chuyên về nghiên cứu và các lý thuyết, Jacques Jean Lhermitte còn là một homme de terrain, nghiên cứu não bộ dưới tất cả các khía cạnh của nó, từ cơ thể học đến hành vi. Ông được xem là người cha sáng lập của tâm lý học thần kinh (neuropsychologie) hiện đại.
Jacques Jean Lhermitte sinh năm 1877 ở Mont-Saint-Père, ngôi làng nhỏ gần Château-Thierry. Bố ông là một họa sĩ, gởi ông theo học ở St Etienne rồi ở Maux, ở đây ông nhận được văn bằng tú tài. Vào năm 20 tuổi, bị quyến rũ bởi y khoa, ông “lên” Paris, ở đây ông theo những lớp học của các nhà thông thái nổi tiếng như Pierre Marie và Raynaud. Ông trình luận án về một vấn đề đã có tính chất thần kinh học ” Etude des papaplégies des vieillard “. Một năm sau, ông là phó trưởng khoa lâm sàng ở Clinique des maladies du système nerveux, đồng thời theo đuổi những công trình nghiên cứu. Vào năm 34 tuổi, ông điều khiển phòng thí nghiệm mô học của bệnh viện La Salpêtrière và những năm sau, ông không những gia tăng những buổi hội nghị về những bệnh thần kinh mà còn những lớp thực hành về kính hiển vi dành cho những thương tổn của hệ thần kinh trung ương và ngoại biên. Ông được yêu cầu làm préparateur cơ thể bệnh lý ở Đại học y khoa và được bổ nhiệm làm y sĩ trưởng (médecin-chef) của hospice Paul Brousse ở Villejuif.
NHỮNG BÀI HỌC CỦA CHIẾN TRANH
Trong đệ nhất thế chiến ông là mot médecin de terrain trước khi hoạt động chính thức như là chuyên gia ở trung tâm thần kinh học ở Bourges. Những trường hợp gây chết chóc này cho ông cơ hội chạm trán với những vết thương nặng của hệ thần kinh trung ương cũng như những rối loạn tâm thần thần kinh (troubles neuropsychiatriques). Vào năm 1923, ông thêm những kết luận trên thực địa của mình vào những bài giảng của bộ môn lâm sàng về bệnh tâm thần và não và được bổ nhiệm professeur honoraire de neuropsychiatrie. Đối với ông đó là một vinh dự lớn bởi vì cho đến khi đó ông không xứng đáng để nối nghiệp những tay cự phách như Déjerine, Pierre Marie và Guillain. Tuy vậy hiện nay ông được xem như là một trong những nhà sáng lập của tâm lý học thần kinh (neuropsychologie) hiện đại.
MỘT SỰ NGHIỆP DỒI DÀO.
Lhermitte xuất bản rất nhiều.Những tác phẩm của ông bao gồm tâm thần học và tâm lý học, được bao phủ bởi thuyết thần bí (mysticisme) và đạo Thiên chúa (catholicisme). Thí dụ , ông nghiên cứu hiện tượng quỷ ám (possession diabolique) và những dấu hiệu lâm sàng nhưng cũng xuất bản ” Techniques anatomopathologiques du système nerveux autonome macroscopique et histologique ” hay ” les Psychonévroses de la guerre “. Cùng với Pierre Marie, ông mô tả bệnh Huntington, atrophie ponto-cérébelleuse (teo cầu não và tiểu não) và ảnh hưởng của những bệnh lý mạch máu não trong những bệnh của hệ thần kinh ngoại biên. Ông nghiên cứu sự cắt đứt hoàn toàn của tủy sống nhưng cũng những rối loạn của hành vi con người và cố xếp loại những ảo giác (hallucination) và nhờ thế hiểu được những douleur fantôme của những người bị cắt cụt chi.
MỘT TÊN NỔI TIẾNG CỦA THẦN KINH HỌC.
Tên của ông được gắn liền với nhiều dấu hiệu và triệu chứng thần kinh phức tạp như dấu hiệu Lhermitte, Lhermitte-Duclos, Lhermitte-Comil-Quesnel, Lhermitte-McAlpine, Lhermitte-Lévy và Lhermitte-Trelles ! Những thuật ngữ duy nhất vẫn còn trong trí nhớ của chúng ta là dấu hiệu Lhermitte, để chỉ những giật cơ (soubresaut) lan tràn khắp thân thể lúc gập đầu về phía trước, ở những bệnh nhân bị bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques), bị u tủy vùng cổ (tumeur médullaire cervicale) hay bệnh thoái hóa tủy sống. Thật ra, đặc điểm này đã được đề cập đến trước ông bởi Babinski, Pierre Marie và những người đồng thời khác nhưng ông là người duy nhất dành cho nó một tầm quan trọng để chẩn đoán những thương tổn tủy sống. Thật là chán ngắt khi phải lập danh sách những tạp chí và những hiệp hội thần kinh học hay tâm thần học mà ông đã tham gia, chủ yếu là ở Pháp. Ông bênh vực không những cho thần kinh học mà còn cả tâm lý học và nghiên cứu về ung thư và hai lần nhận giải Herpin của Viện hàn lâm quốc gia y khoa trước khi qua đời ở Paris năm 1959, lúc ông được 82 tuổi.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 26/4/2013)

GHI CHÚ :
– Neuropsychologie (tâm lý học thần kinh) : Nghiên cứu những mối liên hệ giữa các hiện tượng tâm lý, nhận thức (cognitif), xúc cảm và sinh lý của não bộ.
– Neuropsychiatrie (bệnh học tâm thần kinh) : Tên được dùng cho psychiatrie (tâm thần học) trước khi tách ra khỏi thần kinh học (neurologie).
– Homme de terrain : người tiếp xúc trực tiếp với những người, những tình huống cụ thể.
– Membre fantôme (chi ma) : chi mà vài người bị cắt cụt có cảm giác còn sở hữu, do sự tồn tại cả những circuits nerveux supérieur.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(15/2/2014)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s