Thời sự y học số 304 – BS Nguyễn Văn Thịnh

virus H7N9

1/ VIRUS H7N9 : TRUNG QUỐC TRONG TÌNH TRẠNG BÁO ĐỘNG.
24 trường hợp được liệt kê, 7 trường hợp tử vong được đăng ký. Virus H7N9 hiện đang giáng vào vài vùng của Trung Quốc. Và làm lo ngại phần còn lại của thế giới. Tuy vậy, OMS và các các chuyên gia virus học muốn làm an lòng : giống gốc H7N9 không truyền từ người qua người. Ít nhất là vào lúc này.
Trung Quốc trong tình trạng báo động. Trong vài tuần, giới hữu trách Bắc Kinh đã ghi nhận 24 trường hợp những người bị lây nhiễm bởi giống gốc cúm (souche grippale) H7N9. Chỉ mới một tháng sau khi được khám phá trong vùng Thượng Hải, H7N9 đã gây 7 trường hợp tử vong. Mặc dầu giới lãnh đạo Trung Quốc đã áp dụng những biện pháp hà khắc (đóng chợ, hạ sát hàng loạt, khử trùng các khu phố và trường học), nhưng phần còn lại của thế giới tự đặt cho mìnhcác câu hỏi. Phải nói rằng virus H5N1 khủng khiếp, bệnh cúm gia cầm (grippe aviaire) đã từng gây nên khoảng 360 trường hợp tử vong trong 10 năm (vậy từ năm 2003), vẫn còn trong tâm trí của tất cả mọi người.

NHỮNG THÔNG ĐIỆP TRẤN AN
“ Tuy vậy, không nên lo lắng vào lúc này ”, GS Patrick Goubau, trưởng khoa vi trùng học ở Cliniques universitaires Saint-Luc đã trấn an như vậy. “ Hiện nay chúng ta đang chờ xem đã, trong một tình huống trong đó virus có thể đi theo bất cứ chiều hướng nào. Dầu sao tôi cũng tương đối an tâm. Theo những trắc nghiệm đầu tiên, không có mối liên hệ giữa những trường hợp được khai báo khác nhau ở Trung Quốc. Ngoài ra, 600 người thân của những bệnh nhân bị lây nhiễm đã được khám bệnh, những phân tích đã được thực hiện.Tất cả dường như chỉ rằng ở đây chúng ta trong trường hợp một zoonose (bệnh động vật truyền cho người), một nhiễm trùng có thể được truyền bởi các động vật cho người một cách lẻ tẻ. Nhưng không phải từ người qua người.”
Đó cũng là lời truyền đạt trấn an mà Tổ Chức Y Tế thế giới đã mong muốn chuyển đến. “ Mặc dầu hiện giờ chúng tôi không biết nguồn gốc của nhiễm trùng, nhưng không có bằng cớ một sự truyền bệnh từ người sang người của giống gốc H7N9 của cúm gia cầm (influenza aviaire) này ”, Michael OLeary, đại diện của OMS ở Trung Quốc đã phát biểu như vậy.
Tin vui khác : giống gốc cúm (souche grippale) hiện giờ đã gây nhiễm dưới 30 người. Hoặc một sự bắt đầu chậm hơn nhiều so với những virus khác trong quá khứ. “ Để nhắc lại, khi H1N1 đã xuất hiện ở Mexique cách nay 4 năm, khi đó ta đếm được vài trăm trường hợp ngay những tuần dâu tiên ”, GS Goubau đã nhắc lại như vậy. Ở đây ta nhanh chóng nhận thức vấn đề bởi vì gà được theo dõi rất sát. Ngoài ra, virus H7N9 này gây một suy hô hấp rất nặng ở người. Đứng trước những bệnh nhân bị bệnh, các thầy thuốc nhận xét rằng đó là một cúm đặc biệt và rung chuông báo động.
MENACE PORCINE.
Nhưng không phải như thế là được cuộc. Mặc dầu hiện tại không gì chứng tỏ rằng virus H7N9 được truyền từ người qua người, nhưng sự ngược lại cũng không được chứng minh. Do đó giới hữu trách y tế Trung Quốc tiếp tục theo dõi những người thân của các bệnh nhân bị nhiễm siêu vi trùng. Nếu những người này mắc phải H7N9 mà không tiếp xúc với các động vật, thì OMS và các chuyên gia sẽ phải nhanh chóng biến đổi những lời phát biểu hiện nay của họ.
Để nhắc lại, các virus này có trên bề mặt của chúng hai protéine bên ngoài, hémagglutinine (chữ H) và neuraminidase (N). Hai protéine này có thể hiện diện dưới rất nhiều dạng : 16 đối với hémagglutinine và 9 đối với neuraminidase. Hoặc một stock khổng lồ.
“ Hiện nay, tất cả các giống gốc được truyền từ người qua người liên kết các dạng 1,2 hoặc 3 của H với những dạng 1 hay 2 của N. Dẫu sao đó là những giống gốc duy nhất mà ta đã quan sát từ đầu thế kỷ 20. Tất cả những loại khác không gây lây lan đặc biệt ở ngườI ”. Patrick Goubau đã nói tiếp như vậy. Ông xác nhận rằng đe dọa chủ yếu cuối cùng có thể phát xuất từ … các con heo. “ Các con heo có những đường hô hấp được trang bị bởi những thụ thể thuộc loại gia cầm và người ”, nhà chuyên khoa virus học đã xác nhận như vậy. “ Những động vật này như thế được dùng như là những trung gian trong đó virus người và gia cầm lẫn lộn với nhau. Các virus có một génome phân mảnh (fragmenté) : trong trường hợp đồng nhiễm (co-infection) bởi hai virus, những mảnh này có thể trộn lẫn và tạo lại (se recomposer). Réassortiment génétique này khi đó cho ra một virus mới. Virus này có thể được truyền từ người qua người.” Đó là điều chủ yếu đã xảy ra vào năm 2009 trong trận dich H1N1.
Mặc dầu buộc phải lạc quan, nhưng sự ngờ vực vẫn là thích hợp.
SỰ TRỞ LẠI CỦA H5N1 LÀM VIỆT NAM VÀ CAMBODGE LO NGẠI.
Một loại cúm gia cầm có thể che dấu một loại khác. Mặc dầu hiện tại H7N9 mới chỉ là một mối đe doạ, nhưng H5N1 vẫn còn tiếp tục giết người.
Trong khi Trung Quốc đang đương đầu với một giống gốc mới của bệnh, Cambodge hiện đang cố tìm hiểu tại sao và bằng cách nào virus H5N1, vốn đã xuất hiện trong vùng cách nay 10 năm, bây giờ đã tái xuất hiện trở lại. Ngoài ra virus dường như gây chết người và nguy hiểm hơn bao giờ hết. 8 người, trong đó 6 trẻ em, bị chết từ đầu năm 2013. Hoặc, chỉ trong vòng chưa được ba tháng, gần một phần ba trong số 27 nạn nhân thiệt mạng trong vương quốc từ 2003. “ Chúng tôi theo dõi, chúng tôi trong tình trạng báo động thường trực ”, giới cầm quyền Phnom Penh đã chỉ rõ như vậy. Virus H5N1 cũng đã gây thiệt mạng cho một bé trai 4 tuổi ở Việt Nam. Với ít nhất 62 trường hợp tử vong từ đầu trận dịch, Việt nam là một trong những nước vùng Đông nam Á bị ảnh hưởng nhất.
LE JOURNAL DU MEDECIN 12/4/2013)

2/ MỘT LIỆU PHÁP GÈNE CHỐNG UNG THƯ GAN
CANCEROLOGIE. Một virus được biến đổi về mặt di truyền phá hủy các tế bào ung thư và kéo dài một cách đáng kể tuổi thọ của những bệnh nhân bị ung thư gan.
“ Đó là lần đầu tiên một virus phát xuất từ génie génétique cải thiện một cách đáng kể tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân bị ung thư.” Chính như thế mà David Kim, nhà nghiên cứu ở Jennerex, đã tóm tắt trước báo chí kết quả có được nhờ Pexa-Vec, virus được biến đổi về mặt di truyền, được hiệu chính bởi phòng thí nghiệm của ông ở Californie. Được trắc nghiệm bởi một kíp nghiên cứu quốc tế trên những bệnh nhân bị một ung thư gan vào một giai đoạn rất tiến triển, Pexa-Vec đã làm gia tăng 40% hy vọng sống (espérance de vie) của họ so với điều trị thông thường. Kết quả này mang lại hy vọng, bởi vì “ những lựa chọn điều trị bị hạn chế trong loại những bệnh nhân này ”, Tony Reid, thầy thuốc chuyên về ung thư thuộc đại học Californie, đồng tác giả của thử nghiệm đã chỉ rõ như vậy.
Pexa-Vec dẫn xuất từ virus của bệnh ngưu đậu (vaccine). Các nhà sinh học đã đưa vào đó một cấu trúc di truyền hoàn thiện, cho phép virus này tấn công các tế bào ung thư trên nhiều mặt trận. Nhờ cấu trúc này, virus chỉ tăng sinh với sự hiện diện của một enzyme đặc biệt, chỉ được kích hoạt trong những tế bào ung thư. Vậy virus này chỉ xâm nhập và giết chết những tế bào ung thư nhưng tha miễn những tế bào lành mạnh.
Génome tổng hợp của virus cũng cho phép nó bỏ đói khối u ung thư, bằng cách làm giảm sự tạo thành những huyết quản mới nhằm nuôi dưỡng nó. Sau cùng génome này cho phép virus kích thích hệ miễn dịch để nó chống lại những tế bào ung thư.
NHỮNG KHỐI U VÀ DI CĂN
Thử nghiệm đã được thực hiện trên 30 bệnh nhân bị một ung thư gan nguyên phát ở một giai đoạn rất tiến triển : 16 đã nhận một liều mạnh Pexa-Vec, 14 bệnh nhân khác một liều 10 lần thấp hơn. Điều trị đã được cho trực tiếp trong các khối u của gan, bằng 3 mũi cách nhau 2 tuần. “ Ở đây, các tác giả đã tự thêm cho mình một khó khăn, trong chừng mực là nói chung chúng ta thường có nhiều cơ may hơn quan sát một hiệu quả khi ta so sánh một điều trị mới với một placebo ”, Laurent Castéra, thầy thuốc chuyên khoa về gan thuộc bệnh viện Beaujon de Clichy đã chỉ rõ như vậy.
Các kết quả : Trong nhóm đầu tiên, trung bình các bệnh nhân đã sống sót 14,1 tháng so với 6,7 tháng trong nhóm thứ hai. Hai năm sau điều trị, hai bệnh nhân của nhóm “ liều mạnh ” vẫn còn sống. Để so sánh, một trong những điều trị thường được sử dụng đối với chỉ định này, Sorafenib, chỉ kéo dài cuộc sống trung bình 10 tháng. Không có một tác dụng phụ nghiêm trọng nào đã được chứng thực.
Những thăm dò bổ sung được tiến hành trên vài bệnh nhân đã tiết lộ rằng kích thước của các khối u được điều trị Pexa-Vec đã giảm. Kích thước của các khối ở xa cũng đã thoái triển : Vậy virus được biến đổi có thể tấn công những di căn nhờ di chuyển trong máu. Nó cũng đã làm giảm sự phân bố mạch (vascularisation) của các khối u. Sau cùng nhóm nghiên cứu đã phát hiện, như được dự kiến, sự hiện diện của các kháng thể chống lại những tế bào ung thư.
(LA RECHERCHE 4/2013)

3/ HỌC NHẠC RẤT SỚM CÓ LỢI CHO NÃO BỘ
Thực hành nhạc, đó là điều tốt. Bắt đầu trước 7 tuổi, lại còn tốt hơn ! Ít nhất nếu ta tin một công trình nghiên cứu cho thấy rằng chơi một nhạc cụ trước lứa tuổi này tăng cường những nối kết não bộ (connexions cérébrales) trong những vùng vận động của đại não và làm dễ sự điều hòa tâm vận động và giác quan (coordination psychomotrice et sensorielle) .
Âm nhạc không chỉ làm cho phong tục thuần hơn. Những công trình nghiên cứu được tiến hành với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu của những đại học Concordia và McGill de Montréal đã cho thấy rằng sự việc theo một lớp đào tạo âm nhạc giữ 6 và 8 tuổi, một thời kỳ nhạy cảm ”, có một ảnh hưởng đặc biệt dương tính lên sự phát triển não bộ và sự điều phối của các động tác.
TEST DE MOTRICITE ET SCINTIGRAPHIE.
Để đi đến kết luận này, các nhà nghiên cứu Québec đã cho 36 nhạc sĩ trưởng thành một épreuve motrice cũng như một scintigraphie cérébrale. Các nhạc sĩ được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên đã bắt đầu học nhạc trước 7 tuổi và nhóm thứ hai sau lứa tuổi này. Tuy nhiên, hai nhóm nhạc sĩ đều có cùng số năm đào tạo và kinh nghiệm.
Trắc nghiệm chức năng vận động (test de motricité) nhằm đánh giá năng lực học một chuỗi các cử động (une séquence de mouvements) rồi thực hiện nó. Trắc nghiệm đã phát hiện rằng các nhạc sĩ học nhạc sớm dễ dàng hơn các nhạc sĩ học muộn trong những công việc đồng bộ hóa (synchronisation).
Còn về phân tích cấu trúc não, phân tích này đã cho phép quan sát ở những nhạc sĩ học nhạc sớm một sự gia tăng chất trắng của thể chai (corps calleux), là nơi nhiều tiếp xúc giữa các tế bào thần kinh được thực hiện. Thế mà ta biết rằng chất trắng này, được cấu tạo bởi các sợi thần kinh, nối những vùng vận động phải và trái của não bộ, những vùng liên quan đến sự hoạch định (planification) và thực hiện những cử động.
Những công trình nghiên cứu này chủ yếu đã cho phép xác lập một cách rõ ràng rằng học nhạc bất đầu càng sớm trong cuộc đời, thì tính chất nối kết não bộ (connectivité cérébrale) càng quan trọng.
SỚM HOẶC KHÔNG BAO GIỜ.
Những dữ kiện thu được cũng đã được so sánh với những dữ kiện nhận được ở một nhóm thứ ba những người đã ít được đào tạo âm nhạc, thậm chí không được đào tạo. Sự phân tích các scintigramme đã không cho thấy một sự khác nhau đáng kể, ở não bộ, giữa những người không phải nhạc sĩ và những nhạc sĩ đã thực hiện sự đào tạo chậm trễ hơn, và điều này mặc dầu sự thực hành một nhạc cụ đòi hỏi sự điều phối.
Những thông tin gây ngạc nhiên này khiến nghĩ rằng không có trường hợp trung dụng : những tác dụng lên sự phát triển của não bộ xảy ra sớm hoặc không xảy ra.
“ Công trình nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng sự đào tạo có hiệu quả hơn lúc còn nhỏ tuổi do tính nhạy cảm lớn nhất đối với những thay đổi của vài khía cạnh của cơ thể học não bộ trong thời kỳ này ”, GS Robert Zatorre đã xác nhận như vậy.
TÀI NĂNG, KHÔNG PHẢI LÀ MỘT LỊCH SỬ TUỔI TÁC
“ Sự thực hành một nhạc cụ trước 7 tuổi có lẽ kích thích sự trưởng thành của những nối kết (connexion) giữa các vùng vận động và giác quan của não bộ, tạo nên một cái khung mà sự tiếp tục đào tạo sẽ củng cố ”, đồng nghiệp của ông, GS Virginia Penhune đã nói thêm như vậy.
Như thế âm nhạc có thể biến đổi não bộ. Nhưng chú ý sự diễn giải : điều đó không có nghĩa là những nghệ sĩ vĩ đại nhất là những người đã có những bước đầu sớm nhất. Bởi vì tài năng không chỉ là một câu chuyện tuổi, nó còn phụ thuộc vào vài thiên khiếu.
“ Thật vậy, hiệu năng âm nhạc không chỉ duy nhất ở việc học kỹ thuật mà còn do năng lực truyền đạt những cảm xúc, ở lòng nhiệt thành, ở phong cách và nhiều kêu tố khác không thể đo lường, GS Penhune đã xác nhận như vậy. Như thế, bắt đầu học nhạc sớm mặc dầu giúp anh biểu hiện tài năng, những điều đó không nhất thiết sẽ làm anh trở nên một nhân tài.”
(LE JOURNAL DU MEDECIN 26/3/2013)

4/ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG ĐỊA TRUNG HẢI : SỰ PHÒNG NGỪA CÁC NHỒI MÁU VÀ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO ĐƯỢC XÁC NHẬN.
GS Nicolas Danchin, thầy thuốc chuyên khoa tim thuộc Bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, phó chủ tịch Société franaise de cardiologie, tác giả của “ La maladie coronaire ”, bình luận công trình nghiên cứu lớn của Tây Ban Nha, cho một bằng cớ mới về những lợi ich của chế độ ăn uống Địa trung hải lên những bệnh tim mạch.
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi thành phần của chế độ ăn uống Địa Trung hải (régime méditerranéen) này ?
GS Nicolas Danchin. Chế độ ăn uống này này đặc biệt có nhiều rau xanh, trái cây, cá mỡ, dầu olive, quả hồ đào (noix), quả phỉ (noisette) và quả hạch (amande). Sự tiêu thụ thịt đỏ và đồ thịt lợn (charcuterie) rất bị hạn chế, sự tiêu thụ các dầu rán (friture), bánh ngọt công nghiệp (patisserie industrielle), các món ăn quá nhiều muối và đường cần phải tránh, cũng như những mỡ bảo hòa (graisses saturées), những đồ uống ngọt (boissons sucrées) và tất cả những gì có các loại mỡ được che dấu. Rượu van đỏ, một ly mỗi bữa ăn, có thể có lợi cho những người đã tiêu thụ không quá mức và chocolat đen không được loại bỏ bởi vì nó chứa các flavonoides, tốt cho các động mạch.
Hỏi : Một công trình nghiên cứu Tây Ban Nha vừa xác nhận những lợi ích của chế độ ăn uống này. Protocole của công trình này là gì ?
GS Nicolas Danchin : Công trình nghiên cứu quy mô lớn này đã được thực hiện trên 7500 người có nguy cơ cao bị những bệnh tim mạch (những bệnh nhân đái đường, những bệnh nhân cao huyết áp, những người nghiện thuốc lá, những người tăng cholestérol), trung bình 67 tuổi và được chia thành 3 nhóm. Nhóm đầu tiên đã theo một chế độ ăn uống ít mỡ, khá gần với chế độ ăn uống Địa trung hải (régime méditerranéen), nhưng không có dầu olive, không có quả hồ đào (noix), không có quả hạch (amande), quả phỉ (noisette). Nhóm thứ hai đã chịu một chế độ ăn uống Địa trung hải cổ điển, gồm một lít dầu olive mỗi tuần, được cung cấp bởi những nhà tiến hành công trình nghiên cứu và được tiêu thụ với những thức ăn khác nhau. Nhóm thứ ba đã theo một chế độ ăn uống Địa trunh hải với sự tiêu thụ tùy ý dầu olive nhưng với quả hồ đào, các quả hạch và các quả phỉ, được cung cấp bởi các nhà nghiên cứu. Thử nghiệm này đã kéo dài 5 năm, với sự kiểm tra mỗi 3 tháng được thực hiện bằng những bảng câu hỏi.
Hỏi : những kết quả như thế nào ?
GS Nicolas Danchin : Nhìn toàn bộ, ta đã ghi nhận một sự giảm 30% nguy cơ tai biến mạch máu não, nhồi máu, những bệnh tim mạch và những trường hợp tử vong do những bệnh lý này. Sự hạ tỷ lệ tử vong này gần giống nhau trong hai nhóm cuối mà chế độ ăn uống có nhiều dầu olive và các quả phỉ (noisettes).
Hỏi : Những kết quả tốt của một chế độ ăn uống Địa trung hải đã được chứng minh bởi những công trình nghiên cứu trước đây. Công trình mới nhất này có ý nghĩa hơn ở chỗ nào ?
GS Nicolas Danchin : Đó là công trình nghiên cứu quy mô lớn nhất từng được thực hiện trên thế giới, trên một số lượng lớn nhất các bệnh nhân và trong thời kỳ dài nhất. Điều đã rất khéo léo, đó là khuyến khích những người tham dự bằng cách cung cấp cho họ dầu olive cũng như các quả hồ dào và quả phỉ. Mặt khác, việc đã theo dõi họ mỗi 3 tháng, bằng cách theo dõi sự tiêu thụ của họ và bằng cách đề nghị họ những menu, đã cho phép một sự tuân thủ rất tốt chế độ ăn uống được đề nghị.
Hỏi : Bằng cơ chế nào, chế độ ăn uống đặc hiệu này bảo vệ hệ tim mạch ?
GS Nicolas Danchin : Ta đang còn ở giai đoạn những giả thuyết, nhưng chế độ địa trung hải làm tăng trương lực các động mạch và làm chúng đề kháng hơn với những yếu tố nguy cơ. Cũng có thể là chế độ ăn uống này có tác dụng làm loãng (fluidifier) máu, như thế hạn chế sự tạo thành những cục máu đông. Những công trình nghiên cứu đang được tiến hành, chủ yếu về một tác dụng phòng ngừa khả dĩ những bệnh viêm. Điều đó rõ ràng : những kết quả của chế độ ăn uống này thật ngoạn mục ! Và điều đó đối với tất cả mọi lứa tuổi và ở đàn ông cũng như ở đàn bà. Bởi vì các huyết quản của chúng ta bắt đầu mảnh dẻ, ngay ở tuổi trưởng thành, do đó lời khuyên của tôi là hãy bắt đầu theo sớm một chế độ ăn uống địa trung hải.
(PARIS MATCH 11/4-17/4/2013)

5/ ĂN CÁ : YẾU TỐ CỦA TUỔI THỌ VÀ SỨC KHOẺ TỐT.
ALIMENTATION. Người ta đã nói tất cả và cả điều trái lại về
những oméga 3, những axit béo mà ta tìm thấy chủ yếu trong các loại cá, đặc biệt những cá mỡ (poisson gras) : rằng chúng cho phép chống lại ung thư, có một tác dụng chống trầm cảm, làm giảm những nguy cơ tim mạch hay ngược lại rằng chúng không ích lợi gì hết, rằng những công trình nghiên cứu đều thiên lệch, rằng tất cả điều đó chỉ là vì mục đích thương mãi… Ngoài ra, trong những năm qua, các công trình nghiên cứu khoa học về chủ đề gây tranh cãi này bị đình trệ. Đầu tháng tư, hai tài liệu xuất bản lại phát động cuộc tranh luận về lợi ích ăn cá và dường như chấp thuận, một cách rõ ràng, sự hiện diện thường xuyên của những thực phẩm này trong các món ăn hàng tuần của chúng ta.
Một cuộc điều tra, được thực hiện bởi Trường y tế công cộng Havard vừa kết luận rằng những người già khi có một tỷ lệ oméga 3 lần cao hơn trong máu có một nguy cơ tử vong dưới 27% và một nguy cơ nhồi máu cơ tim được giảm 35% so với những người có những người có những nồng độ oméga thấp nhất. Công trình nghiên cứu, được công bố 1 tháng 4 trong tạp chí Annals of Internal Medicine quan tâm đến 2700 người trưởng thành trên 65 tuổi tham gia “ Cardiovascular Health Study ”. Mỗi người tham gia được theo dõi trong 15 năm đã được đo nồng độ trong máu nhiều lần, nhất là nồng độ của oméga 3. “ Những công trình nghiên cứu của chúng tôi cho phép bảo vệ ý tưởng cho rằng một nồng độ oméga thích đáng là quan trọng đối với sức khỏe tim mạch ”, tác giả chính của công trình nghiên cứu, Darlush Mozaffarian đã xác nhận như vậy.
Nhưng không phải là tất cả. Cùng ngày, một công trình khác chuyên sâu hơn, được công bố trong The Journal of Leucocyte Biology, gợi ý rằng dầu cá, dĩ nhiên giàu oméga 3, kích thích các chức năng của các tế bào lympho B, những tê bào máu này có liên quan trọng phòng vệ cơ thể chống lại sự nhiễm trùng. Từ vài năm nay lưu hành ý tưởng cho rằng dầu cá có một tác dụng chống viêm và rằng tác dụng này được liên kết với một sự giảm những phản ứng miễn dịch. “ Thật ra trái lại dầu cá có thể tăng cường những khả năng miễn dịch của các cá thể ”, Jenifer Fenton, từng ra sức cho công trình nghiên cứu này, được tiến hành trong département des sciences de l’alimentation thuộc Đại học của tiểu bang Michigan đã đảm bảo như vậy. Để đi đến kết luận này, các nhà nghiên cứu đã thực hiện công việc trên hai nhóm chuột. Những con chuột của nhóm đầu nhận một chế độ ăn uống cổ điển, những con thuộc nhóm hai nhận dầu cá vào mỗi bữa ăn. Sau khi xem xét các tế bào lympho của chúng, các nhà nghiên cứu đã có thể quan sát rằng các con chuột được nuôi với những dầu cá nổi tiếng này đã có được những tế bào lympho rất được kích thích, có thể lực tốt và sẵn sàng chiến đấu chống lại những xâm nhập.
(LE FIGARO 15/4/2013)

6/ CÁ CHỐNG LẠI SINH NON
GROSSESSE. Mặc dầu những kỹ thuật y khoa hiện nay cho phép điều trị một cách hiệu quả nhưng em bé sinh non, sự tìm kiếm những phương tiện cho phép tránh sinh trước thời hạn vẫn là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Một công trình nghiên cứu của Hoa Kỳ vừa cho thấy rằng một sự tiêu thụ cá vừa phải được liên kết với một sự giảm tỷ lệ sinh non ở các phụ nữ có tiền căn (được công bố trong Obstetrics & Gynecology).
Khởi thủy, công trình nghiên cứu cố tìm biết xem một sự cho bổ sung những acide béo oméga-3 giữa 16 tuần và 21 tuần và 6 ngày thai nghén có cho phép làm giảm nguy cơ sinh non hay không. Những kết quả của thử nghiệm này đã không cho phép phát hiện một lợi ích đối với những phụ nữ. 852 phụ nữ được đưa vào trắc nghiệm khi đó đã nhận một bảng câu hỏi về thói quen ăn uống của họ trong thời kỳ trắc nghiệm. Và điều ngạc nhiên, thì ra rằng khả năng một sinh non được giảm một cách đáng kể ở những phụ nữ tiêu thụ cá hơn một lần mỗi tháng so với những phụ nữ tiêu thụ ít hơn (35,9% so với 48,6%).
Nguy cơ thấp nhất đã được chứng thực ở những phụ nữ ăn cá 3 lần mỗi tuần với một nguy cơ tương đối giảm 40%. Các nhà nghiên cứu ngay cả đã có thể kết luận rằng trên 3 lần mỗi tuần (vài phụ nữ tiêu thụ cá mỗi ngày), không có những lợi ích bổ sung.
(LE FIGARO 27/6/2011)

7/ CÁI CHẾT CỦA LÉNINE : BÍ MẬT SAU CÙNG ĐƯỢC GIẢI QUYẾT ?
Cái chết của nhà lãnh tụ xô viết, xảy ra năm 1924, đã làm tuôn tràn nhiều mực nhưng cho đến nay không một giả thuyết nào được sự nhất trí. Vào tháng năm 2012, các chuyên gia, hội họp nhân một hội nghị lâm sàng-bệnh lý học lịch sử ở đại học Maryland, đã xem xét, một lần nữa, về điều bí mật này. Và ngày 4 tháng vừa qua, nhiều tờ báo loan báo rằng sau cùng sự thật vừa lộ ra. Tuy vậy, vẫn còn vài mối hoài nghi..
Khi chôn cất Lénine, ngày 27 tháng giêng năm 1924, đài phát thanh xô viết phát ra lời loan báo long trọng : “ Các đồng chí hãy đứng dậy, Lénine đã xuống mồ ”. Trước khi lại tiếp tục : “ Lénine tuy đã chết những chủ nghĩa léninisme vẫn còn sống mãi ”. Từ đó nghĩ rằng Lénine vẫn còn sống, chỉ cần một bước chân. Ngay những năm 20, nhiều huyền thoại gợi ý rằng Lénine không chết và rằng ông đang theo dõi Liên Xô từ trong bóng tối. Tuy vậy, các tờ báo đã mô tả chi tiết cuộc giải phẫu tử thi của ông, đến độ cho ngay cả trọng lượng của não.
Vladimir Ilitch Oulianov, được biết hơn dưới tên Lénine, chết trong ngôi nhà của ông ở Gorki vào lúc chỉ mới 54 tuổi. 3 năm trước đó, sức khỏe của ông đã chao đảo đột ngột, tạo điều kiện cho nhiều ước tính.
Lúc còn trẻ, Lénine từng có một chiếc đầu to lớn đến độ ông thường ngã ra trước và mẹ ông sợ rằng ông bị một sự chậm phát triển trí tuệ. Lúc trưởng thành, Lénine bị bệnh thương hàn và bệnh viêm quầng (érysipèle). Lúc 48 tuổi (1918) ông sống sót một vụ mưu sát. Hai viên đạn bắn vào ông, một xuyên qua ngực còn một đi qua vai và vào nằm gần tủy sống ở đáy cổ. Các thầy thuốc từ chối lấy ra hai viên đạn chì và Lénine sẽ giữ chúng cho đến khi ông qua đời. Một cách gián tiếp, đó có phải là nguyên nhân gây ra cái chết của ông (ngộ độc chì) ? Phải chăng do bệnh giang mai ? Nguyên nhân của tai biến mạch máu não nặng (AVC massif) được mô tả trong giải phẫu tử thi là gì ? Y khoa hiện đại có lẽ vừa giải quyết điều bí ẩn, hơn 20 năm sau khi Liên Xô tan rã.
2012, XEM LẠI HỒ SƠ TỪ ĐẦU
Harry Vinters, thầy thuốc Hoa Kỳ say mê trường hợp Lénine, là thầy thuốc chuyên khoa thần kinh và nhà cơ thể bệnh lý thần kinh (Los Angeles, Đại học Californie). Mỗi năm, nhân hội nghị Baltimore dành cho những chẩn đoán các bệnh mà những nhân vật lịch sử mắc phải, chuyên gia y khoa này có người cộng tác là một nhà viết sử.
Phát xuất từ những báo cáo giải phẫu tử thi, BS Vinters tìm ra bằng cớ của ít nhất hai tai biến mạch máu não : một thương tổn quan trọng ở bán cầu đại não trái, hẳn đã gây thất ngôn (aphasie) và bại liệt bán thân, và một thương tổn ít quan trọng hơn ở bán cầu phải. Theo nhà chuyên gia, những thương tổn này đã có trước khi Lénine chết, xác nhận tình trạng suy tàn 3 năm trước đó và những phim chụp hiếm hoi cho cảm giác một con rối đãng trí (un pantin absent) ngồi trên xe lăn.
Thật vậy, ngay năm 1921, Lénine bắt đầu bị đau đầu mãn tính, mất ngủ và những cơn ngất xỉu được quy cho làm việc quá sức. Các thầy thuốc chỉ dẫn ông nghỉ ngơi nhưng chẳng mang lại một sự thuyên giảm nào. Với thời gian, tình trạng của ông trầm trọng thêm. Vào tháng 11 năm 1921, lời nói của ông bị vấp khi đọc một bài diễn văn quan trọng ; ông quên những từ và cắn nhẹ nhiều lần các ngón tay như để nhớ lại. Sau đó, chứng mất ngôn ngữ (aphasie : không nói được hoặc không hiểu được) và chứng mất khả năng viết (agraphie) xuất hiện. Ông suy yếu, hầu như không thể bước được. Phía bên phải của ông bị bại liệt. Ông cố học nói trở lại và cố viết bằng bàn tay trái nhưng qua đời ngày 21 tháng giêng năm 1924.
TẠI SAO CHẾT TRẺ NHƯ THẾ ?
Tai biến mạch máu não là không thể nghi ngờ nhưng nguyên nhân của nó được tranh cãi nhiều hơn. Tại sao một tai biến mạch máu não như thế xảy ra ở một người tương đối trẻ và vả lại ở trong tình trạng sức khỏe có vẻ tốt ? Nếu các huyết quản não bị cứng lại, phải chăng đó là do xơ vữa động mạch (athérosclérose) ? Nhưng Lénine không có những yếu tố nguy cơ. Ông không hút thuốc và cấm việc làm này khi ông hiện diện, một thái độ hiếm hoi vào thời kỳ đó. Giải phẫu tử thi không cho thấy những dấu hiệu cao huyết áp và ông không béo phì cũng chẳng bị đái đường. Stress cũng bị cáo buộc để giải thích một xơ vữa động mạch xảy ra sớm.
Khi đó trở lại giả thuyết bệnh giang mai, thường được nêu lên, thường thấy vào thời kỳ đó và khó điều trị. Tuy vậy bảng báo cáo giải phẫu tử thi không đề cập một thương tổn nào phù hợp và bệnh viêm mạch máu màng não do giang mai (vascularite méningée syphilitique) có những đặc điểm rất phân biệt với những đặc điểm của một tai biến mạch máu não. Ngoài ra những nhồi máu não do giang mai nói chung có kích thước rất nhỏ trong khi thương tổn bên trái rất lớn. Các đích khác của bệnh giang mai là động mạch chủ nhưng những đặc điểm lại không được mô tả lúc giải phẫu tử thi. Vậy dường như có thể loại bỏ nguyên nhân do xoắn khuẩn (spirochète)… Tuy vậy có khả năng là ông đã bị nhiễm bệnh giang mai rồi được chữa lành. Trong những hồ sơ được công bố sau khi Liên Xô sụp đổ, ta tìm thấy một điều trị vào năm 1895 với Salvarsan (dẫn xuất arsenic) và với iodure de potassium, điều trị duy nhất có thể có vào thời kỳ đó.
GIA ĐÌNH HÃY ĐỘC DƯỢC ?
Cha của Lénine chết lúc 54 tuổi vì một tai biến mạch máu não xuất huyết (AVC hémorragique), có lẽ trong khung cảnh của một sốt thương hàn ; hai trong số các anh chị em của ông chết lúc rất còn trẻ (19 và 21 tuổi) và 3 người sống sót trên 50 tuổi tất cả đều chết vì những vấn đề tim mạch : một người chị chết vì nhồi máu cơ tìm lúc 59 tuổi, một người chị khác chết vì tai biến mạch máu não ở tuổi 71 và một người anh chết vì cơn đau thắt ngực (angor) lúc 69 tuổi. Thế thì phải chăng đó là một bệnh tăng cholestérol máu di truyền (hypercholestérolémie familiale) ? Không thể chứng minh được bởi vì lúc đó cholestérol hầu như chưa được biết đến.
Ngoài ra, Lénine lên cơn co giật trong những ngày trước khi chết, sự kiện rất hiếm trong trường hợp những tai biến mạch máu não, trong khi đó nhiều loại chất độc có thể gây những cơn co giật này. Tại sao không một độc chất nào được cho theo lệnh của Staline để loại bỏ ông ra khỏi chính quyền ? Lạ lùng, bởi vì trong khi những xét nghiệm độc chất học (test toxicologique) thường được thực hiện ở Liên Xô, thì các thầy thuốc pháp y lại nhận lệnh không thực hiện một xét nghiệm nào.
2013, GIẢI ĐÁP ? KHÔNG CHẮC LẮM
Nếu các động mạch não bị tắc và cứng đến như thế và nếu cây gia phả có nhiều người bị những rối loạn huyết quản, đó có thể là bởi vì gia đình Oulianov bị một căn bệnh di truyền hiếm : sự biến dị NT5E. Đó là giả thuyết cuối cùng của BS Vinters
Do bất thường này, sự vôi hóa mạch máu, xuất hiện trong nội mạc (intima) hay trung mạc (médias) của các mạch máu, được liên kết với một nguy cơ cao bị những biến cố tim mạch. Quá trình gây bệnh bắt chước quá trình điều biến xương (remodelage osseux) nhưng ở mức vôi hóa động mạch. Cho đến lúc ấy, loại thương tổn nhiễm sắc thể thường tính liệt (lésion autosomique récessive) này đã chỉ được mô tả trên các trẻ em và ảnh hưởng lên một gène khác (ENPP1). Trái lại căn bệnh mới này tìm thấy ở những người trưởng thành. Trong trường hợp này, những vôi hóa phì đại nằm chủ yếu ở các chi dưới và các khớp nhỏ của các bàn tay trong khi các động mạch cảnh, động mạch chủ và các động mach cảnh trong, động mạch chủ và các động mạch vành đều khá lành manh, cũng như hệ mạch máu não. Đó có thật sự phù hợp với những triệu chứng của Lénine ? Không nơi nào người ta đề cập chứng claudication intermitente cũng như đau thiếu máu cục bộ của các chi và các bàn tay.
Vậy không chắc rằng giả thuyết này là giả thuyết cuối cùng. Để được rõ ràng, phải thực hiện những phân tích trên não, vẫn luôn luôn được bảo quản ở Moscou ở viện não bộ. Nhưng một sự cho phép rất ít có khả năng được chấp nhận.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/3/2013)

8/ CÁC BỆNH TIM CÓ ẢNH HƯỞNG LÊN TÍNH DỤC ?
BS André Corman
Médecin sexologue et andrologue
Directeur d’enseignement à la
faculté de médecine Toulouse III
Président du Syndicat national des médecins sexologues

Mối liên hệ mật thiết giữa các rối loạn cương (trouble de l’érection) và những bệnh lý tim-mạch ngày nay được biết rõ và đã là đối tượng của nhiều tài liệu xuất bản. Tuy nhiên, kiến thức này vẫn còn ít hữu hiệu trên thực địa và sự không hay biết sinh ra nhiều sợ hãi.
Những bệnh tim mạch và những rối loạn cương được làm dễ bởi cùng những yếu tố. Như thế tình trạng tăng thể trọng, bệnh đái đường, cao huyết áp, thuốc lá và cholestérol, tình trạng nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité) và sự thiếu hoạt động vật lý đều là những yếu tố nguy cơ đối với tim cũng như đối với dục tính (sexualité).
Chúng ta hiểu : khi một người cần làm một gắng sức, điều đó cần một sự cung cấp máu bổ sung thí dụ trong cơ tim của người này. Chủ yếu chính monoxyde d’azote (NO) sẽ làm giãn thành cơ (paroi musculaire) của các động mạch (nội mạc : endothélium) và cho phép thích ứng lưu lượng.
Những yếu tố nguy cơ mạch máu làm biến đổi những tế bào nội mạc này, như thế làm giảm sự sản xuất NO. Thế mà, bình thường chính NO cho phép làm giãn các sợi cơ trơn của các thể cương (corps érectile) của dương vật. Thật vậy, những yếu tố nguy cơ mạch máu cũng trở thành những yếu tố nguy cơ đối với sự cương.
Điều đó có hậu quả là bệnh nhân có nguy cơ tim đặc biệt bị những rối loạn cương dương vật.
Bệnh nhân bị bệnh tim thấy cuộc sống riêng tư của mình và sự điều trị hai bệnh lý chịu những lo sợ mà phần lớn là những thành kiến : giao hợp có nguy hiểm đối với bệnh nhân không ? Bệnh lý tim phải chẳng sẽ làm mất dục tính (sexualité) của bệnh nhân và các loại thuốc mà ta kê đơn cho bệnh nhân có nguy hiểm cho bệnh nhân hay không ? Chúng ta hãy thử trình bày chi tiết những lo sợ này.
Sự giao hợp có nguy hiểm cho tim không ? Trái với một định kiến, gây nên do cái chết của một danh nhân giữa lúc đang làm tình, hoạt động tình dục (activité sexuelle) chỉ rất hiếm khi có can dự trong sự xuất hiện của một nhồi máu cơ tim. Vả lại, người ta đã định lượng sự gắng sức do một động tác giao hợp và thấy rằng động tác này có cùng mức độ với sự việc đi lên hai tầng cầu thang có chiều cao bình thường. Chỉ có những bệnh nhân có nguy cơ tim quan trọng như cơn đau thắt ngực không ổn định, suy tim giai đoạn II hay IV, nhồi máu cơ tim rất mới đây (dưới hai tuần), những loạn nhịp có nguy cơ, bệnh tim gây tắc (cardiomyopthie obstructive) mới phải tạm thời đình chỉ hoạt động tình dục của mình.
Trái lại trên thực tế, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng một hoạt động tình dục đều đặn có tính chất rất bảo vệ đối với tim.
Phải chăng tôi sẽ mất cương và dục tính của tôi vì những vấn đề tim ? Mặc dầu, như chúng ta đã thấy, có một nguy cơ quan trọng bị những rối loạn cương hay nguy cơ tim nhưng có thể điều trị chúng. Một trong những trở ngại cho một điều trị tốt những bệnh nhân này là hai mối sợ hãi : sợ những thuốc điều trị tim có những tác dụng phụ sinh dục và sợ những thuốc nhằm vào sinh dục nhưng có tác dụng phụ lên tim.
Những điều trị nhằm vào tim chủ yếu là những thuốc chống cao áp (những thuốc chẹn beta và những thuốc lợi tiểu), có tiếng gây nên nhưng rối loạn sinh dục. Sự thiếu những kiến thức rất chính xác về những tác dụng phụ sinh dục của chúng thường khiến bệnh nhân không tôn trọng một cách đúng đắn thậm chí dừng lại những điều trị này.
Nhìn toàn bộ, ta có thể nói rằng những điều trị có thể tạo điều kiện cho những rối loạn hoặc là cương, hoặc là dục tính và không đi vào chi tiết những loại thuốc điều trị, vài loại thuốc gây nhiều rối loạn hơn những loại khác. Nhưng thực tế thuần thống kê này có thể thay đổi tùy theo tính nhạy cảm của bệnh nhân. Một cách cụ thể, cùng loại thuốc có thể gây nên một rối loạn ở người này và không chút nào ở người khác. Phải thêm vào đó rằng sự lo ngại gây nên bởi sử dụng một loại thuốc mà ta nghĩ rằng xấu cho cương có thể đủ để gây nên một rối loạn (tác dụng nocebo).
Nhất là không nên dừng hẳn điều trị của mình bởi vì việc để thành hình một căn bệnh tim mạch sẽ luôn luôn làm gia trọng vấn đề dục tính. Có thể hợp lý là đề nghị sử dụng một loại thuốc điều trị cương để điều chỉnh những rối loạn này hơn là làm mất cân bằng điệu trị tim hay phá vỡ sự tuân thủ điều trị.
Viagra có hại cho tim là một ý nghĩ dán vào “ tâm trí ”. Lớp thuốc điều trị gồm Viagra cùng với Cialis và Lévitra được gọi là IPDES. Đó là điều trị quy chiếu của chứng loạn năng cương (dysfonction érectile). Trên thực tế, nhiều công trình nghiên cứu lâm sàng cũng như kinh nghiệm của chúng tôi cho phép trả lời rằng những loại thuốc này không hại cho tim và còn ngay cả có thể cải thiện nó. Như mọi loại thuốc khác, chỉ cần tôn trọng những chống chỉ định (nhất là những phối hợp với các dẫn xuất nitrat hay khi tình trạng tim chống chỉ định một hoạt động tình dục).
Nếu ta cố phát hiện những yếu tố khả dĩ cho sự chữa lành những rối loạn cương, ta sẽ tìm thấy đó là sự hạ chỉ dấu khối lượng cơ thể (mất cân), sự thực hành một hoạt động vật lý đều đặn và… sự xuất hiện trở lại lòng ham muốn. Khi đó đừng do dự thay đổi vệ sinh đời sống của mình mỗi khi có thể được : ăn một cách lành mạnh và cân bằng và thực hành một hoạt động thể thao lành mạnh chỉ có thể cải thiện những rối loạn cương này.
Còn về rối loạn ham muốn (trouble de désir), thường nhất nó chỉ là hậu quả của rối loạn cương : sự việc không thể cương cứng là điều không thể chịu đựng được đến độ người đàn ông cuối cùng tránh những giao hợp và, để không quá khốn khổ, anh ta không còn ham muốn nữa.
Nhiều mối lo sợ, có tính chất làm suy thoái dục tình của bệnh nhân “ bị bệnh tim ” và những năng lực đáp ứng của đôi lứa khi đứng trước căn bệnh mãn tính này, phải được loại bỏ bằng sự hiểu biết. Đó là điều kiện để bệnh nhân có nguy cơ về tim cũng như bạn đường phối ngẫu có thể tái tục một hoạt động tình dục mà không sợ cho hạnh phúc..và do đó cho sức khỏe của họ.
(LE FIGARO 18/3/2013)

9/ NHỮNG RỐI LOẠN HIỀN TÍNH CỦA TRÍ NHỚ CÓ NGHĨA LÀ GÌ ?
Francis Eustache
Directeur de recherche
Université de Caen Basse-Normandie

Tất cả chúng ta đã trải qua điều đó : chùm chìa khóa mà ta không tìm thấy lại, những chi tiết còn thiếu về một biến cố hay cảm tưởng khám phá, trong một phim mà chúng ta xem lần thứ hai, một cảnh mới. Như thế dường như chúng ta ý thức về trí nhớ của chúng ta khi bị những “ratés” của cuộc sống hàng ngày. Sự nhận thức này có thể bị gia tăng bởi sự trung gian của những bệnh thoái hóa và bởi những dấu hiệu báo trước, lo sợ khi xảy ra petit “ bug ”. Tuy vậy đúng hơn phải cho rằng những dấu hiệu được phát ra bởi trí nhớ này nhấn mạnh sự hoàn hảo của nó.
Trong một cuốn sách mới được xuất bản gần đây cùng với cộng tác viên của tôi Béatrice Desgranges, Les Chemins de la mémoire, chúng tôi mô tả những hệ thống trí nhớ khác nhau và những tương tác của chúng, nhiều đường vòng (circuit) dẫn đến những kiến thức và những kỷ niệm, những biến đổi cần thiết của các dấu vết nhớ (trace mnésique), một tổ chức phức tạp không hiện hữu ở bất cứ ordinateur nào và làm cho trí nhớ con người trở thành một công cụ rất hiệu năng.
NHỮNG NGHIÊN CỨU HÌNH ẢNH NÃO BỘ.
Có nhiều thí dụ ; chúng ta lấy trường hợp chùm chìa khóa bị biến mất. Trong trường hợp này, thường nhất trí nhớ không có liên can. Tình huống này chỉ nhấn mạnh sự việc rằng giai đoạn mã hóa (phase d’encodage) (lúc chúng ta ghi những thông tin) cần một sự chú ý tối thiểu. Nếu sự chú ý này bị chiếm mất bởi một hoạt động khác gây một mối bận tâm, sự mã hóa (encodage) nơi mà các chìa khóa được đặt sẽ không xảy ra. Trong trường hợp này, quên (oubli) không xảy ra bởi vì ngay trí nhớ đã không bị đòi hỏi.
Thí dụ khác : một cuộc nói chuyện giữa bạn bè, nhắc lại cho nhau một biến cố đã trải qua cách nay vài tháng. Một trong những người bạn có thể ngạc nhiên khi thấy khó khăn trong việc thu hồi vài yếu tố của ký ức mặc dầu lại hiện diện ở một người khác. Tình huống này cho thấy rằng chúng ta sử dụng những con đường khác nhau để tiếp cận những ký ức của chúng ta. Một đường trực tiếp và hầu như không cản được : một chỉ dấu gợi ý (indice évocateur) làm phát khởi sự thu hồi (récupération). Con đường kia gián tiếp và cần gắng sức : người đó phải tự mình tìm lại những chỉ dấu bối cảnh (indice contextuel) cho phép anh ta hòa điệu với cuộc nói chuyện. Những thăm đó chụp hình ảnh não đã cho thấy sự can dự của thùy thái dương trong (lobe temporal interne) (và của hồi hải mã) để cho ký ức được sống lại một cách chính xác và đầy đủ, nhưng cũng nhờ đến các thùy trán trong trường hợp một tìm kiếm tích cực trong trí nhớ.
Thí dụ của phim được xem một lần thứ hai nhấn mạnh tính chất chọn lọc và “ tái xây dựng ” của trí nhớ. Bạn đã xem phim một lần dầu trong một tâm trạng nào đó và với vài chờ đợi. Trong những tháng sau, vài yếu tố dần dần được củng cố để ngưng kết vào những kiến thức tổng quát (ve loại phim này hay nhà đạo diễn), trong mối liên hệ với những kỷ niệm cá nhân (những người đi kèm anh ngày hôm đó). Những yếu tố của phim dần dần bị quên và những yếu tố khác mất đi sự chính xác, mặc dầu chúng đã được xử lý bởi não bộ của chúng ta và đã đóng một vai trò trong sự tạo thành những kiến thức của chúng ta. Chúng tôi đã tìm cách hiểu “ tương lai của những ký ức ” này với Caroline Harand và Géraldine Rauchs, trong một công trình nghiên cứu được thực hiện trong đơn vị nghiên cứu của chúng tôi và mới đây được công bố trong Plots One. Những người tham dự đã ghi nhớ những hình ảnh và phải nhận biết chúng 3 ngày và 3 tháng sau khi học tập bằng cách phân biệt những hình ảnh mà họ “ sống lại ” một cách chính xác trong bối cảnh encodage (điều mà ta gọi là “ un souvenir épisodique ”) và những hình ảnh mà họ biết là đã thấy, nhưng không thật sự nhớ lúc encodage.
Nhờ chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ chức năng (IRM fonctionnelle), chúng tôi đã cho thấy rằng hồi hải mã (hippocampe) được hoạt hóa khi thu hồi những souvenir épisodique, dầu mới xảy ra hay xưa hơn. Ngược lại khi chúng mất tính đặc hiệu với thời gian, chỉ có những vùng tân vỏ não (région néocorticale), nơi chứa những kiến thức được ngữ nghĩa hóa (connaissances sémantisées) mới được hoạt hóa. Những thí dụ này cho thấy công việc tổng hợp phức tạp của trí nhớ, làm những ký ức của chúng ta trong tình trạng sẵn sàng.
(LE FIGARO 15/10/2012)

10/ TA ĐÃ PHÁT HIỆN TÁC DỤNG CỦA ÁNH NẮNG MẶT TRỜI LÊN TINH THẦN.
Đó là điều được biết rõ : khi mùa xuân đến và khi độ sáng (luminosité) gia tăng, những người bị trầm cảm có khuynh hướng thấy tình trạng của mình được cải thiện. Đến độ điều trị bằng ánh sáng (luminothérapie) đôi khi được sử dụng để chống lại chứng trầm cảm mùa đông (dépression hivernale). Tuy vậy cho đến nay các cơ chế thần kinh giải thích vẫn không được biết rõ. Và nay không còn như vậy nữa, nhờ những công trình của kíp nghiên cứu của Minglian Pu (đại học Bắc Kinh Trung Quốc) trên một mô hình động vật nhỏ, gerbille. Thật vậy, các nhà nghiên cứu đã khám phá rằng những tế bào hạch (cellules ganglionnaires) của võng mạc, những tế bào nằm trong mắt tiếp xúc với những tế bào cảm thụ ánh sáng, được nối với một vùng rất chính xác của thân não, có liên hệ trong sự chế tạo sérotonine. Sérotonine là một chất dẫn truyền thần kinh đóng một vai trò trong tính khí (humeur). Mắt lúc được kich thích bởi ánh sáng, gởi những tín hiệu, qua những tế bào hạch, làm gia tăng nồng độ của sérotonine trong vùng này của não bộ và làm giảm những hành vi trầm cảm ít nhất là ở gerbille. Các nhà nghiên cứu cũng đã cho thấy rằng để làm giảm chứng trầm cảm của những động vật gậm nhấm bị tước mất ánh sáng này, sự kích thích những tế bào hạch võng mạch của chúng có cùng tác dụng với một điều trị dựa trên những thuốc chống trầm cảm cổ điển.
(SCIENCE ET VIE 4/2013)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(22/4/2013)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Bình luận về bài viết này