Thời sự y học số 294 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ CHỨNG HÓI : NHỮNG ĐIỀU TRỊ VẪN CÒN TỐN KÉM

                                            CHỨNG HÓI
                                       Bằng những con số 
                                            20 đến 25
       tuổi, đó là lứa tuổi trung bình xuất hiện chứng hói ở đàn ông.
                                           100.000
       đó là số các sợi tóc mà một người trung bình có.
                                          50 đến 100
       đó là số sợi tóc mà chúng ta rụng mỗi ngày

                  TẠI SAO TÓC KHÔNG MỌC LẠI NỮA ?
Di truyền
     Trong 70% các trường hợp, chứng hói được truyền qua các gène
Stress nặng
Chế độ ăn uống
     Thiếu hụt vitamine H và B6
Thuốc gội đầu (shampoings)
     Vài sản phẩm tấn công da đầu
Thuốc
     Vài loại thuốc (amphétamine, các thuốc chống đông máu)
Một phản ứng với các kích thích tố nam
      Các hormone nam phát khỏi một phản ứng ở các nhú bì (papilles dermiques)
      Phản ứng này có thể làm gia tốc chu kỳ lông (cycle pilaire). Các sợi tóc chết sớm và rụng mà không còn hy vọng mọc lại.

                                  Những giải pháp hiện có
Đắp thuốc nước (lotion cutanée) (Minoxidil)
Điều trị bằng thuốc uống (Finastéride)
Ngoại khoa (ghép tóc vi thể : microgreffe de cheveux)

Hai loại thuốc đã chứng tỏ có hiệu quả và những thứ thuốc khác đang được phát triển.
CHEVEUX. “ Hướng nghiên cứu những chất tương cận của các prostaglandines là tiến bộ nhất, nó có thể dẫn đến một điều trị mới trong hai năm đến, với những kết quả dường như đầy hứa hẹn hơn những điều trị hiện nay ”, BS Pascal Reygagne, giám đốc của Centre Sabouraud (Paris) đã đảm bảo như vậy. Từ nay, hai loại thuốc này đã chứng tỏ có hiệu quả chống lại chứng hói (calvitie) và chúng thêm vào những kỹ thuật ngoại khoa mới để mang lại những giải pháp cho các ông và các bà sống khó khăn với việc bị rụng tóc.
2/3 những người đàn ông bị liên hệ bởi chứng hói, xảy ra sớm hay muộn trong cuộc đời mình và 1/3 trở nên bị hói : đó là một hiện tượng bình thường, liên kết với các kích thích tố nam (hormone androgène) và do đó phần lớn hiện diện ở những người đàn ông. Mặc dầu bình thường, chứng hói biến đổi bề ngoài của gương mặt và có thể có những hậu quả tâm lý quan trọng, nhất là ở những người đàn ông trẻ tuổi. Chứng hói, trong đại đa số các trường hợp có nguồn gốc di truyền và chiếc sọ của một đứa con trai thường sẽ giống với chiếc sọ của cha mình. Vậy có khả năng xét đến một điều trị sớm chứng hói, điều này làm gia tăng nhưng cơ may mang lại thành công.
Ở người đàn ông, những dấu hiệu đầu tiên của chứng hói được quan sát ở vùng thái dương (golfes temporaux), mất tóc ngày càng nhiều cũng như trên vùng cao của sọ. “ Dần dần toàn bộ sọ đều bị ảnh hưởng, ngoại trừ một vành tóc vẫn còn tồn tại cho đến khi chết ”, GS Christian Dubreuil, thầy thuốc ngoại khoa và giáo sư của đại học Claude-Bernard (Lyon) đã nhấn mạnh như vậy.
Khi chứng hói phát khởi đột ngột, phải tìm kiếm một nguyên nhân khác và trước hết là stress. Một chế độ làm gầy (régime amaigrissant) hay cách ăn uống quá mất quân bình cũng là nguyên nhân gây rụng tóc. Vài bệnh ngoài da, vài bệnh hay vài loại thuốc cũng có thể được nhận diện trước mọi can thiệp lên chứng hói.
Tuy nhiên, nếu nguồn gốc là do kích thích tố nam được xác nhận, minoxidil thuốc nước (lotion), đắp trên những vùng bị thương tổn, là điều trị quy chiếu. “ Ít nhất cần 3 tháng để quan sát những kết quả, với một sự mọc lại tóc ở 1/3 các bệnh nhân, vùng tóc rụng ổn định ở 1/3 bệnh nhân khác và không có một tác dụng nào đối với 1/3 người còn lại ”, BS Reygagne đã nhấn mạnh như vậy.
Những tác dụng phụ xảy ra tại chỗ : đỏ, kích thích, ngứa ở nơi da đầu, tóc mỡ.
Nếu giải pháp này không được thỏa mãn, những người đàn ông hói có thể được điều trị bằng một cách khác : finastéride, được dùng bằng đường miệng. “ Ít nhất sau 3 đến 6 tháng, ta quan sát thấy một sự mọc trở lại ở 40% những bệnh nhân, một sự ổn định đối với 40% bệnh nhân khác và không có một tác dụng nào đối với 20% người còn lại ”, BS Reygagne đã chỉ rõ như vậy.
ĐIỀU TRỊ LÂU DÀI
Finastéride có những tác dụng phụ được biết lên đời sống sinh dục của các bệnh nhân nhưng những công trình nghiên cứu vẫn còn gây tranh cãi, nhất là tác dụng về lâu về dài, của sự sử dụng finastéride với liều thấp, như được kê đơn chống lại chứng hói. Thật vậy hai điều trị này phải được dùng rất lâu dài bởi vì chúng không tấn công vào nguyên nhân của chứng hói : ngừng thuốc hàm ý một sự rụng tóc trở lại. Đó là một trong những ưu điểm của những kỹ thuật ngoại khoa, mang lại một kết quả xác định (đọc bài số 3).
Sự xuất hiện của minoxidil trong những năm 1980 và của finastéride vào năm 1999 chống lại chứng hói đã cách mạng hóa việc điều trị, nhưng những điều trị này không hiệu quả ở tất cả các bệnh nhân và không cho những kết quả ngoạn mục. Những điều trị này vẫn tốn kém, cũng như những kỹ thuật ngoại khoa. Vì phần lớn những người đàn ông bị liên hệ, nên nghiên cứu đặc biệt tích cực để tìm ra những giải pháp khác.
NHỮNG TẾ BÀO GỐC
Những tế bào gốc, về lâu về dài, có lẽ sẽ là một hướng điều trị đáng lưu ý nhưng có lẽ tốn kém. Những công trình nghiên cứu khác quan tâm đến những yếu tố tăng trưởng, có thể làm dễ sự xuất hiện những tế bào có chức năng lông (cellules à fonction pilaire) từ những tế bào gốc hiện diện trong da.
Trước mắt hơn, nhiều kíp nghiên cứu đang đánh giá lợi ích của những sản phẩm có chất căn bản là những chất tương cận của prostaglandines : những chất này hiện diện trong các thuốc giọt được sử dụng để điều trị glaucome, làm dễ sự tăng trưởng của các lông mi. Một công trình nghiên cứu của Anh mới đây đã xác nhận rằng bimatoprost có cùng tác dụng lên các nang tóc người và trên bộ lông chuột bị điều tương đương với chứng hói.
(LE FIGARO 21/1/2013)

2/ CHỨNG RỤNG TÓC : CŨNG CÓ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
Chứng hói (calvitie) thường ít xảy ra hơn ở phụ nữ và đúng hơn được biểu hiện bởi một sự rụng tóc lan tỏa rất hiếm khi dẫn đến một chứng hói hoàn toàn. Mặc dầu hiếm hơn, nhưng các phụ nữ khó sống hơn chứng hói, nhất là trong một xã hội mà bộ tóc là một yếu tố quyến rũ quan trọng. “ Điều quan trọng là đừng chờ đợi quá lâu rồi mới can thiệp khi các nang (follicules) còn có khả năng sản xuất tóc ”, GS Dubreuil, thầy thuốc ngoại khoa và giáo sư ở đại học Claude-Bernard (Lyon) đã nhắc lại như vậy.
Cũng như ở đàn ông, chứng rụng tóc (alopécie) lan tỏa này thường nhất là do một yếu tố tạm thời : stress, bệnh, rối loạn tuyến giáp hay máu, thiếu các chất dinh dưỡng do một chế độ ăn uống không thích ứng hay do một bệnh ngoài da.
Những yếu tố kích thích tố có thể đóng một vai trò quan trọng : tuổi dậy thì, thay đổi hay ngừng thuốc ngừa thai, thời kỳ chu mãn kinh (périménopause) là bấy nhiêu những biến cố gây rụng tóc. Có khi một nồng độ tăng cao của kích thích tố nam (androgène) gây nên một sự rụng tóc ở phụ nữ. Trong trường hợp này, cũng như ở người đàn ông, các sợi tóc ngày càng trở nên mảnh và cuối cùng không mọc lại nữa. Ngoài những nguyên nhân khả dĩ này, những yếu tố di truyền phần lớn đóng một vai trò và việc quan sát mẹ mình có thể chỉ một tiến triển khả dĩ.
MỘT NGHIÊN CỨU ĐANG TIẾN HÀNH
Vào lần thăm khám đầu tiên, người thầy thuốc sẽ thực hiện một loạt các thăm dò để nhận diện những vấn đề khả dĩ gây rụng tóc và điều trị chúng trước khi đề nghị một điều trị cho chính chứng rụng tóc. Điều trị chuẩn là minoxidil 2%, cần đắp trực tiếp lên vùng đáy của da đầu, hai lần mỗi ngày. “ Phải rất chú ý đừng đắp vào những nơi khác, nhất là trên mặt, bởi vì điều này làm dễ sự mọc lông và lông mao ”, BS Reygagne, giám đốc Centre Sabouraud (Paris), hiện đang tuyển mộ các phụ nữ cho một công trình nghiên cứu về một loại thuốc mới, đã nói rõ như vậy.
“ Tốt nhất là tránh đắp thuốc dưới 1 giờ trước khi đi ngủ để tránh làm cho thuốc lan rộng trên gối và do đó có thể trên má trong đêm.” Người thầy thuốc cũng thường phải kê đơn những chất bổ sung dinh dưỡng nhằm làm dễ sự mọc trở lại các sợi tóc lành mạnh.
Không có loại thuốc khác để điều trị chứng rụng tóc của phụ nữ bởi vì finastéride, mặc dầu tác dụng lên chuyển hóa của testostérone nhưng không có tác dụng nào trên cơ thể họ. Minoxidil cho những kết quả sau nhiều tháng, sau đợt rụng tóc ban đầu ở những vùng được điều trị, trên đó những sợi tóc được tái sinh có thể mọc trở lại sau đó. Điều trị này, không được bồi hoàn bởi Sécurité sociale, phải được duy trì liên tục để tránh tóc rụng trở lại. Phí tổn do đó không phải là ít, mặc dầu những biến thể générique từ nay làm giảm giá thành của dược phẩm.
Những điều trị ngoại khoa mang lại một giải pháp thay thế đáng lưu ý với một kết quả dài lâu nhưng với một phí tốn rất cao, lên đến ít nhất 2500 euros. Do đó nhiều phụ nữ chọn lựa đeo tóc giả (perruque), với rất nhiều style mà bộ tóc tự nhiên không thể nào có được.
(LE FIGARO 21/1/2013)

3/ MICROGREFFES : MỘT CÔNG VIỆC ĐÒI HỎI CHÍNH XÁC VÀ DÀI LÂU TRÊN DA ĐẦU.
“ Được thực hiện trong những điều kiện tốt, những kỹ thuật ngoại khoa cấy tóc (implanttaion de cheveux) cho những kết quả rất thỏa mãn ”, GS Christian Dubreuil, thầy thuốc ngoại khoa phụ trách đào tạo chuyên khoa đại học về chứng hói, thuộc đại học Claude-Bernard (Lyon), đã chỉ rõ như vậy. Hơn 90% những bệnh nhân là những người đàn ông, nhưng sự phát triển những kỹ thuật bằng ghép vi thể (microgreffe), thích ứng tốt nhất đối với những chứng hói lan tỏa, khiến càng ngày càng có nhiều phụ nữ xét đến một điều chỉnh ngoại khoa.
Những trường hợp hói rất khu trú được thấy ở những người đàn ông, cho phép trong vài trường hợp, di chuyển những mảnh da đầu từ những vùng nhiều tóc đến những vùng bị rụng tóc hơn. Đối với những người đàn ông khác, có thể xét đến một sự làm giảm khoanh hói đỉnh đầu (tonsure), quan trọng ít hay nhiều, bằng cách lấy đi một phần của vùng rụng tóc. Những kỹ thuật mini hay microgreffe de cheveux từ nay thường được đề nghị nhất.
Những kỹ thuật này nhằm lấy những sợi tóc trong những vùng có nhiều tóc để cấy lại chúng ở những vùng thiếu tóc. Các sợi tóc có thể được lấy thành những dải nhỏ (en bandelettes), được cắt để tạo thành những implant chứa 1 đến 4 sợi để microgreffe và lên đến 8 để minigreffe. Phương thức này để lại một vết sẹo được che dấu bởi các sợi tóc và cho phép cấy đến 5000 sợi tóc.
6 GIỜ CAN THIỆP
Khi vùng cần che phủ hơi ít quan trọng, từ nay có khả năng lấy từng sợi tóc. Sự lấy tóc không để lại sẹo nhưng thầy thuốc ngoại khoa phải cạo các vùng lấy để thu được 2500 sợi tóc để cấy lại (réimplanter). Can thiệp được thực hiện dưới gây mê tại chỗ, kéo dài khoảng 6 giờ, trong hai trường hợp, và cần ít nhất hai người mổ để chuẩn bị những mẫu ghép (greffons), điều này giải thích phí tổn cao của loại ngoại khoa này : khoảng 2 euros mỗi nang tóc.
“ Sau đó phải chờ 6 tháng để thấy kết quả, GS Dubreuil đã nhắc lại như vậy. Các sợi tóc được cấy rụng một cách nhanh chóng, để lại hàng ngàn những điểm đỏ nhỏ trên sọ ”. Sau đó một sợi tóc mới mọc ra, để đạt trung bình 2 cm sau 6 tháng. Những kết quả càng thỏa mãn khi những mong chờ thực tế : mật độ tóc mọc cho phép che khuất sọ với những sợi tóc đã mọc lại, nhưng không tìm lại được mật độ tóc nguyên thủy. Đối với phần lớn các bệnh nhân, phần lớn những mẫu ghép được cấy một cách đúng đắn, với trung bình mất khoảng 10% đến 20%. Đôi khi cần phải thực hiện nhiều can thiệp để đạt kết quả được mong chờ.
Tuy nhiên chất lượng của kết quả trước hết tùy thuộc vào chất lượng của can thiệp. “ Những kỹ thuật này phải được thực hiện bởi một thầy thuốc được đặc biệt đào tạo để làm chủ tốt chính phương pháp, nhưng cũng những điều kiện để làm giảm những nguy cơ liên quan đến mọi can thiệp ngoại khoa ”, GS Dubreuil đã nhấn mạnh như vậy.
(LE FIGARO 21/1/2013)

4/ OCYTOCINE, KÍCH THÍCH TỐ TĂNG CƯỜNG LÒNG CHUNG THỦY CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG.
Các nhà nghiên cứu người Đức có lẽ đã khám phá một phương tiện làm cho những người đàn ông chung thủy hơn. Họ đã chứng minh rằng cho ocytocine bằng xịt mũi (spray nasal) có thể biến đổi thái độ của những người tình nguyện khi được đặt trước một người đàn bà quyến rũ.
Phai chăng có một cách để làm cho những người đàn ông trở nên chung thủy ? Dường như đúng là có, nếu ta tin vào một công trình nghiên cứu mới, được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu thuộc đại học Bonn. Và điều đó chẳng có gì là lãng mạn cả, vì lẽ tình yêu có thể phát sinh trong vùng dưới đồi (hypothalamus), cái tuyến nhỏ nằm tuốt ở giữa não, có nhiệm vụ điều hòa sự ăn ngon (appétit) và khả năng tình dục (sexualité) và nhất là, tiết ocytocine, một hormone tự nhiên mà ta gán cho nhiều tính chất đặc biệt.
NHIỀU LỢI ÍCH
Đã từng được sử dụng dưới dạng thuốc để làm gia tăng những co bóp của các phụ nữ khi sinh, được trắc nghiệm như là điều trị chống lại chứng rụt rè, làm dễ sự tự tin và ngay cả mang lại lòng can đảm, được biết là đóng một vai trò quan trọng trong sự quyến luyến của cha mẹ với các người con cũng như trong những hành vi vị tha, đồng cảm hay yêu thương, ocytocine cũng góp phần vào tình yêu và làm dễ những mối quan hệ xã hội.
Những nghiên cứu trước đây, được thực hiện trên chuột đồng, cũng đã cho thấy rằng ocytocine giúp kích thích và tăng cường những mối liên hệ trong một đôi ở nhiều động vật có vú, trong đó có con người, và rằng chất kích thích tố này đóng một vai trò chủ chốt trong chế độ một vợ một chồng (monogamie) của các động vật. Tuy nhiên về mặt tính chung thủy, các công trình đã chưa đi khá xa, theo những nhà nghiên cứu người Đức. Các nhà nghiên cứu này vừa phát hiện sự đóng góp của ocytocine trong lòng chung thủy của những người đàn ông và sự vững chắc của đôi lứa.
NGẠC NHIÊN
Kíp nghiên cứu người Đức đã làm việc với 86 người tình nguyện dị luyến ái (hétérosexuel) thuộc giới tính nam, tuổi trung bình 25 tuổi và được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên, gồm 57 người đàn ông, đã nhận một liều ocytocine bằng xịt mũi, trong khi đó một nhóm thứ hai, gồm 29 người đàn ông khác, được cho một huyết thanh sinh lý đơn thuần. Sau 45 phút, những người đàn ông tình nguyện được giới thiệu với một phụ nữ chưa từng được biết, được các nhà nghiên cứu cho là “ quyến rũ ”. Sau đó, người phụ nữ tiến sát dần dần cho đến khi người đàn ông, bất động, nói với cô ta ở khoảng cách nào, thoải mái đối với anh ta, anh ta muốn cô dừng lại. Phuơng cách được lập lại theo hướng khác, lần này người tình nguyện đến gần người phụ nữ cho đến khi đạt được khoảng cách thoải mái.
Giả thuyết lúc đầu là những người đàn ông dưới tác dụng của ocytocine đã để cho người đàn bà đến gần họ hơn, vì lẽ chất này làm gia tăng lòng tin giữa họ với nhau. Các nhà nghiên cứu rất đổi ngạc nhiên khi ở những người đàn ông đã có vợ, chính điều ngược lại đã xảy ra. Những người đàn ông này đã duy trì một khoảng cách lý tưởng 70 cm so với 55 đến 66 cm (khoảng cách xã hội) đối với những người độc thân và những người đàn ông có vợ và đã nhận placebo.
Do đó hormone làm cho dễ gần gũi hơn (sociable) nhưng không làm dễ sự xích lại gần giữa các thân thể và khiến những người đàn ông có vợ thận trọng. Một cơ chế vô thức, vì lẽ tất cả các người tình nguyện đều gán cùng hệ số quyến rũ (coefficient de séduction) cho người đàn bà trong thí nghiệm khi ta hỏi họ sau đó.
NHỮNG HẬU QUẢ THỰC HÀNH
Những kết quả này như thế gợi ý rằng hormone có khả năng làm giảm sự lôi cuốn những người đàn ông có vợ đến những người đàn bà khác. Điều này khi đó giúp làm cho họ trở nên chung thủy hơn. “ Một sự gia tăng nồng độ ocytocine trước hết dường như giữ những người đàn ông ở cách xa một người đàn bà quyến rũ mà họ chưa từng biết đến nhưng không cho phép đảm bảo sự trung thành của người chồng của người đàn bà quyến rũ này.” Tuy nhiên BS Dirk Scheele, tác giả chính của công trình nghiên cứu đã xác nhận như vậy.
Mặt khác, các nhà nghiên cứu người Đức không quên những hậu quả thực hành của khám phá của họ. “ Để tác dụng tiềm năng làm gia tăng sự trung thành của ocytocine, những partenaire nữ của những người đàn ông phải có được sự phóng thích nội tại ocytocine ngay trước khi những người đàn ông chịu một tình huống trong đó họ sẽ gặp những người đàn bà khác ”, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh như vậy. “ Thế mà một trong những phương tiện để gây nên một cách tự nhiên sự sản xuất, vốn ngắn ngủi, của ocytocine bởi não bộ là đạt được một khoái lạc cực độ (orgasme). Chỉ cần sự hiện diện của partenaire nữ ở gần hay sự kiện bị đụng bởi partenaire nữ khác cũng có thể đủ ”.
Dẫu sao các nghiên cứu cần được tiếp tục bởi những công trình bổ sung để xác nhận tác dụng này của ocytocine, nhất là với những người tình nguyện nữ.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 15/1/2013)

5/ TRONG LÚC CHỜ ĐỢI NGƯỜI ĐÀN ÔNG LÝ TƯỞNG.
Vitrification (congélation) các noãn bào (ovocytes) cho phép các phụ nữ trẻ bị bệnh bảo tồn nguyên vẹn hy vọng một ngày nào đó có những người con. Nhưng một số ngày càng nhiều những cô độc thân, có sức khỏe tốt, cũng nhờ đến điều trị này, mặc dầu nặng nề và tốn kém. Mục đích của họ : để dành vài noãn (ovules) có chất lượng tốt trong lúc chờ đợi tìm kiếm một người đàn ông lý tưởng.
Những kỹ thuật vitrification các noãn bào, được hiệu chính cách nay vài năm, đã mang lại hy vọng cho nhiều phụ nữ, bằng cách cho phép họ bảo tồn nguyên vẹn những cơ may sinh đẻ của họ.“ Vì sự đông lạnh (congélation) làm ngừng đồng hồ sinh học của các noãn bào (chúng không còn già nữa và không thể bị làm tổn hại bởi những yếu tố bên ngoài), sự đông lạnh phòng ngừa (congélation préventive) là một biện pháp cho phép giữ gìn khả năng sinh sản ”, site internet của UZ Brussel đã tóm tắt như vậy.
Các chuyên viên của UZ Brussel, référence thật sự trong lãnh vực này, mỗi năm đón tiếp nhiều ứng viên. “ Việc nhờ đến kỹ thuật đông lạnh các noãn bào có thể xảy ra vì 3 lý do ”, BS Dominic Stoop, thuộc Centre de Médecine Reproductive (CRG) của UZ Brussel, đã tóm tắt như vậy “ Để gìn giữ khả năng sinh đẻ đứng trước những nguy cơ điều trị (thí dụ như hóa học liệu pháp), để đối phó với một vấn đề di truyền (như mãn kinh sớm) hay do cảm thấy trước (par anticipation).” Mặc dầu hai trường hợp đầu, các động cơ của các bệnh nhân có tính chất y khoa, nhưng những lý do xã hội cũng có thể thúc đẩy vài ứng viên. “ Từ lâu ta nói “ social freezing ” nhưng từ ngữ này đối với chúng tôi dường như không còn có tính chất thời sự nữa. Ở đây chúng tôi thích gợi ra AGE Banking hơn. AGE, dĩ nhiên điều đó muốn nói đến tuổi tác nhưng đó cũng là chữ viết tắt của Anticipation of Gamete Exhaustion (cảm thấy trước sự cạn kiệt giao tử) ”
CÀNG NGÀY CÀNG NHIỀU NGƯỜI TRẺ
Từ năm 2009, Trung tâm y khoa sinh sản (Centre de médecine reproductive) tiếp đón những bệnh nhân độc thân, “ không thấy có giải pháp nào khác ”, muốn làm đông lạnh các noãn bào trong lúc chờ đợi tìm kiếm một người chồng lý tưởng. Trong số 244 ứng viên, 113 đã thực hiện ít nhất một chu kỳ (cycle). Và khoảng 1.921 noãn bào đã được đông lạnh trong khung cảnh AGE Banking. “ Cho mãi đến năm 2011, đa số những bệnh nhân của chúng tôi đến từ Hòa Lan, BS Stoop đã nói tiếp như vậy. “ Nhưng từ khi đạo luật đuợc biến đổi, khuynh hướng đã theo chiều ngược lại : trong số các bệnh nhân, một đa số người Bỉ, Hòa Lan, Pháp, 11 phụ nữ đến từ những quốc gia châu Âu khác và ngay cả 5 ứng viên đến từ một lục địa khác, nhất là Hoa Kỳ và Úc.”
Thay đổi khác mà ai cũng biết : các phụ nữ nhờ đến những dịch vụ của UZ Brussel càng ngày càng trẻ tuổi. Trong khi tuổi trung bình là 37,5 tuổi vào năm 2009, thì hôm nay dưới 36 tuổi. Một sự giảm gần 2 năm có thể được giải thích bởi sự kiện là kỹ thuật này, được công chúng biết rõ hơn, hướng về những ứng viên từ nay biết rằng họ phải hành động càng sớm càng tốt. “ Tốt nhất là thu lấy những noãn bào trước khi chúng đạt đến tuổi 35, chất lượng các noãn khi đó tốt hơn. Ở chúng tôi, trên 39 tuổi là giới hạn tuổi, khi đó hai vấn đề được đặt ra là số lượng và chất lượng của các noãn.
“ COI CHỪNG QUẢNG CÁO ”
Quyết định cho làm đông lạnh các noãn bào của mình dĩ nhiên không được thông qua một cách nhẹ dạ. Vitrification phí tổn tương đối đắc (2000 euro cho chính điều trị và hơn 1000 euro tiền thuốc men) và điều trị này, mặc dầu không có nguy cơ thật sự (ngay cả ít nguy hiểm hơn so với thụ thai nhân tạo (FIV), nhưng vẫn là thủ thuật nặng nề. “ Sự kích thích kéo dài từ 10 đến 12 ngày và bắt đầu khi bệnh nhân có kinh. Bệnh nhân khi đó nhận những mũi tiêm mỗi ngày. Vào cuối thời kỳ này, ta tiến hành chọc qua đường âm đạo và các noãn bào, trung bình 8 hay 9 mỗi chu kỳ, được đông lạnh.” Mặc dầu không bắt buộc, bệnh nhân thường chọn hai chu kỳ. Số lượng các noãn bào thu được như thế quan trọng hơn (từ 15 đến 20), cũng như phí tổn (6000 euro).
Mặc dầu sự gia tăng số lượng những bệnh nhân, kỹ thuật vitrification các noãn bào vẫn chưa được biết bởi tất cả các phụ nữ trẻ. Tuy vậy, dưới mắt của BS Stoop, một chiến dịch thông tin là không cần thiết. “ Không nên lẫn lộn thông tin và quảng cáo ”, ông đã đánh giá như vậy. “ Tôi nghĩ rằng sẽ là nguy hiểm khi tất cả các phụ nữ đều làm đông lạnh những noãn bào của mình. AGE Banking phải được dành cho những phụ nữ trẻ độc thân không có giải pháp nào khác.”
MÔ BUỒNG TRỨNG : “ ĐANG CÒN TRONG VÒNG THÍ NGHIỆM ”
Nếu đông lạnh các noãn bào đã thuyết phục nhiều ứng viên, một kỹ thuật khác trong tương lai có thể tỏ ra còn hiệu quả hơn : kỹ thuật làm đông lạnh mô buồng trứng. Được trích lấy rồi làm đông lạnh, một phần nhỏ của buồng trứng sau đó được may lại và phát triển như một buồng trứng mới, có một dự trữ quan trọng các noãn. Nhờ kỹ thuật này, nhiều ngàn noãn có thể thu được (trái với chỉ một chục mỗi chu kỳ trong trường hợp đông lạnh các noãn bào). “ Điều này được thực hiện trong trường hợp các phụ nữ được điều trị vì các ung thư ”, BS Dominic Stoop đã chỉ rõ như vậy. “ Ưu điểm thứ nhất là điều đó không chiếm nhiều thời gian, thứ hai là ở số lượng lớn các noãn mà chúng tôi có thể thu được bằng cách này. Nhưng bất tiện chủ yếu, đó là các noãn thu được không được chín mùi.”
Nếu ở Hoa Kỳ, phương pháp này đã được đề nghị cho các phụ nữ trẻ độc thân hội đủ những tiêu chuẩn của AGE Banking, thì chưa phải như vậy ở đất nước chúng ta. “ Chỉ đơn giản là bởi vì kỹ thuật này còn ở trong vòng thí nghiệm. Và chính Hiệp hội y khoa sinh sản Hoa Kỳ đã chỉ rõ điều đó trong một báo cáo tháng 10 năm 2012. Cho đến mãi hôm nay, đông lạnh các các mô buồng trứng đã cho phép sinh ra đời khoảng 20 em bé. Còn kỹ thuật đông lạnh các noãn bào đã vượt qua giai đoạn thí nghiệm từ lâu và đã chứng tỏ những hiệu quả của nó. ”
(LE JOURNAL DU MEDECIN 18/1/2013)

6/ / PHẢI CHĂNG THẬT SỰ CÓ MỘT SỰ GIẢM CỦA KHẢ NĂNG SINH SẢN NAM GIỚI ?
Docteur Jacques Auger
Biologiste de la reproduction
Hôpital Cochin, Paris

Không có một công trình nghiên cứu nào kết luận (hay không) một sự giảm khả năng sinh sản (fertilité) nam giới với thời gian. Đó chủ yếu là do sự khó khăn trong việc xây dựng một công trình nghiên cứu như thế, vì những lý do khác nhau, trong đó có sự kiện là khả năng sinh sản liên quan đến hai partenaire của couple, với vấn đề khả năng phân lập nhiều yếu tố quyết định khả năng sinh sản của partenaire này hay partenaire kia.
Thường có sự lờ mờ không rõ với câu hỏi về sự tiến triển của chất lượng của tinh dịch (sperme) ở người đàn ông, vấn đề được tranh luận từ hơn 20 năm qua. Bắt đầu từ nửa những năm 1990 cho đến nay, hơn 30 công trình nghiên cứu rétrospective về tiến triển của chất lượng tinh dịch trong những quần thể đàn ông khác nhau đã được thực hiện trong những phòng thí nghiệm khác nhau trên toàn thế giới. Vài công trình nghiên cứu, như công trình mà chúng tôi đã tiến hành trong vùng Paris ở những người cha gia đình, những ứng viên hiến tinh trùng (don de sperme), đã xác nhận sự biến đổi theo thời gian của một hay nhiều đặc điểm của các tinh trùng (nồng độ của chúng, khả năng di động của chúng hay tỷ lệ những tinh trùng bình thường về mặt hình thái), còn những đặc điểm khác thì không.
Việc giải thích những kết quả là khó đối với phần lớn những công trình nghiên cứu này. Thật vậy, nhiều trong số những công trình này đã được thực hiện từ những bệnh nhân đến khám vì một tình trạng vô sinh (infertilité), điều này tạo nên một sai lệch quan trọng. Ngoài ra, đối với nhiều công trình, ta nhận thấy sự không xét đến, trong phân tích thống kê, những yếu tố được biết điều biến những đặc trưng của tinh dịch, chủ yếu là tuổi tác và thời hạn không hoạt động sinh dục trước khi trích lấy tình dịch.
Sự đối chiếu những kết quả của những công trình nghiên cứu về những biến thiên của chất lượng tinh dịch chỉ rõ những chênh lệch đáng kể của chất lượng trung bình của tinh dịch người từ vùng này đến vùng khác trên thế giới, trong những nhóm đàn ông có thể so sánh. Những khác nhau này đã làm nảy sinh ý tưởng cho rằng, độc lập với những yếu tố di truyền và chủng tộc, những biến thiên này có thể được liên kết với những yếu tố môi trường. Từ đó, nhiều công trình nghiên cứu đã so sánh chất lượng của tinh dịch của những người đàn ông trẻ tuổi có sức khỏe tốt trong những vùng khác nhau của thế giới, kết luận có những dị biệt tùy theo vùng, nhất là về sự sản sinh các tinh trùng, những khác nhau đôi khi rất quan trọng.
Vài trong số những công trình nghiên cứu này gợi ý rằng tinh dịch của những tân binh trẻ có chất lượng ít tốt hơn tinh dịch của những người lớn tuổi hơn (từ những công trình được thực hiện trong cùng vị trí cách nay 20 năm ở những người đàn ông từ 30 đến 40 tuổi vào thời kỳ đó). Tuy nhiên phải tương đối hóa những kết luận được thực hiện ở những người tình nguyện với, gần như luôn luôn, một tỷ lệ thấp những người đàn ông chấp nhận tham dự, những nguy cơ sai lệch khác nhau và cuối cùng những quần thể đàn ông được khảo sát ít có tính chất đại diện của quần thể những người đàn ông ở tuổi sinh sản.
Mặt khác, những công trình nghiên cứu trong động vật chí hoang dã (faune sauvage) chỉ rõ những biến đổi của chức năng sinh sản nằm trong nhiều loài, một vài trong những công trình nghiên cứu này phát hiện một mối liên hệ với những biến đổi môi trường. Những bất thường của những bộ máy sinh dục của người đàn ông (như những tinh hoàn lạc chỗ không đi xuống, khi sinh hay trong năm đầu của đời sống hay một bất thường của chỗ tận cùng của niệu đạo vào dương vật) dường như đang gia tăng, những dữ kiện này cũng được tranh cãi. Ít bị tranh cãi hơn là sự gia tăng quan trọng của tần số của ung thư tinh hoàn trong nhiều nước phát triển, trong đó có Pháp, trong 20 năm qua.
Toàn bộ, câu hỏi về một sự hạ khả năng sinh sản của người đàn ông vẫn không có câu trả lời cho đến hôm nay và cuộc tranh luận về những biến đổi theo thời gian của chất lượng của tính dịch vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, sự kết hợp của các công trình nghiên cứu chỉ rõ nhiều bất thường sinh sản được quan sát ở con đực trong những loài hoang dã khác nhau và những kết quả của những công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy những biến thiên đáng kể của chất lượng tinh dịch người theo địa lý hay thời gian cũng như sự gia tăng tần số của ung thư tinh hoàn là những dấu hiệu báo động.
Việc nhờ đến, đã trở thành thường xuyên hơn, những chất chỉ dấu tiếp xúc (marqueur d’exposition) đã làm nảy sinh ý niệm nhiều nguyên nhân (multicausalité) trong đó can thiệp những yếu tố môi trường phức tạp như sự tiếp xúc kinh niên với những liều thấp các hỗn hợp các hợp chất hóa học nhưng cũng những yếu tố liên quan với lối sống, thí dụ sự tiếp xúc của thai nhi giới tính nam với thuốc lá trong thời kỳ thai nghén với hậu quả là một sự sản xuất các tinh trùng bi giảm một cách đáng kể. . Một số ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu, chủ yếu là thí nghiệm, chỉ rõ rằng nhiều trong số những yếu tố này khả dĩ làm xáo trộn sự phát triển của bộ máy sinh dục nam trước và ngay sau khi sinh, nhưng cũng vào lúc tuổi dậy thì và sau đó.
Vậy có một nhu cầu khẩn thiết theo đuổi một cách khẩn cấp nghiên cứu trong lãnh vực này. Điều bức thiết là những cơ quan có liên hệ khác nhau ở Pháp, y tế, sinh thái, nghiên cứu, nông nghiệp, công nghiệp, hãy gia tăng các phương tiện của nghiên cứu phức tạp này trong lãnh vực y tế cộng đồng, nghiên cứu sự giao thoa giữa các lãnh vực đa dạng như dịch tễ học, độc chất học sinh sản, độc chất học sinh thái (écotoxicologie) hay sinh học phân tử. Tiếp tục sự theo dõi y tế, phát hiện một cách chính xác những mối liên hệ giữa những tiếp xúc môi trường và những bất thường sinh sản, chỉ với cái giá này mà những câu trả lời mới có thể được mang lại, về mặt cải thiện những kiến thức nhưng cũng về mặt y tế cộng đồng, chủ yếu để trở nên những chính sách phòng ngừa.
(LE FIGARO 10/12/2012)

7/ METFORMINE : MỘT TÁC DỤNG CHỐNG UNG THƯ ?
Người ta đã đưa ra hai giả thuyết nói rằng hai loại thuốc, aspirine và các statines (statines được sử dụng chống xơ vữa động mạch), có những tác dụng phòng ngừa chống lại nhiều ung thư.
Một dược phẩm được kê đơn rộng rãi như là thuốc hạ đường huyết ở những người bị bệnh đái đường loại 2, metformine có cùng những tác dụng phòng ngừa ; vào năm 2005, một công trình nghiên cứu đã báo cáo một sự hạ tỷ lệ mắc phải ung thư ở những người đái đường được điều trị. Những thử nghiệm thí nghiệm sau đó đã xác nhận tác dụng chống khối u của dược phẩm này (trên những dòng khác nhau những tế bào ung thư người và trên một mô hình động vật ung thư phổi) cũng như một sự gia tăng tính nhạy cảm đối với hóa học trị liệu của những tế bào ung thư của vú, tuyến tiền liệt và phổi. 3 công trình nghiên cứu trên người mới đây cho thấy rằng, ở những người không bị đái đường, một sự hạ 40% nguy cơ ung thư đại trực tràng, một sự giảm trong vòng 6 tuần thể tích khối u của tuyến tiền liệt ở 22 bệnh nhân, một tỷ lệ sống sót được nhân lên 3,7 lần ở 178 phụ nữ bị ung thư buồng trứng so với 239 người khác không sử dụng metformone. Cơ chế tác dụng vẫn còn chưa được hiểu rõ.
(PARIS MATCH 10/1 – 16/1/2012)

8/ STATINES : MỘT TÁC DỤNG CHỒNG UNG THƯ
GS David Khayat, trưởng khoa ung thư thuộc bệnh viện Pitié-Salpêtrière, bình luận công trình nghiên cứu Đan Mạch cho thấy một sự liên kết giữa những loại thuốc này và một sự giảm tỷ lệ tử vong do ung thư.
Hỏi : Trong những trường hợp nào ta thường kê đơn statines ?
GS David Khayat : Ta khuyến nghị statines ở những bệnh nhân có một nồng độ cholestérol tăng cao (trên 3g/l) và nhất là khi có những yếu tố nguy cơ khác như cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng béo phì…mối nguy hiểm là sự tạo thành những mảng xơ vữa (plaques d’athérosclérose) trong các động mạch, làm tắc chúng và gây nên, tùy theo những huyết quản bị thương tổn, một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu não. Nhưng những điều trị này bởi statines, không phải là không có những tác dụng phụ, chỉ được kê đơn khi tỷ suất lợi ích-nguy cơ là thuận lợi một cách không thể bàn cãi được.
Hỏi : Trong những trường hợp tăng cholestérol-huyết, tác dụng của statine là gì ?
GS David Khayat : Loại thuốc này, khi qua gan, làm giảm hoạt tính của các enzymes (HMG-CoA) tham dự vào sự tạo thành cholestérol.
Hỏi : Công trình nghiên cứu của Đan Mạch được công bố trong “ New England Journal of Medicine ” đã diễn ra như thế nào ?
GS David Khayat : Công trình nghiên cứu dịch tễ học này, đã kéo dài 14 năm, từ năm 1995 đến 2009, đã theo dõi gần 300.000 bệnh nhân hơn 40 tuổi, những bệnh nhân này được chẩn đoán một ung thư giữa những năm 1995 và 2007. Trong số những bệnh nhân này, 18.721 người đã dùng mỗi ngày các statines (ít nhất trong 6 tháng) trước khi chẩn đoán. Những bệnh nhân khác thì không bao giờ sử dụng statines. Tỷ lệ tử vong do ung thư đã được so sánh giữa hai nhóm này, đồng thời có xét đến những đặc điểm của mỗi bệnh nhân : tuổi tác, giới tính, loại ung thư, kích thước của khối u…Những kết quả đã tỏ ra đáng kinh ngạc ở những người tiêu thụ statines, nhìn toàn bộ tỷ lệ tử vong bởi ung thư đã được giảm 15% và điều đó độc lập với liều lượng sử dụng mỗi ngày. Tuy nhiên cần ghi nhận : những người dùng statines được theo dõi hơn về mặt y khoa vì nguy cơ tim mạch của họ. Như thế ung thư của họ, được chẩn đoán sớm hơn, đã cho phép một sự xử trí tốt hơn và một tiên lượng tốt hơn, điều này có lẽ làm thiên lệch công trình nghiên cứu .
Hỏi : Làm sao giải thích tác dụng của statines lên tiến triển của những tế bào ung thư ?
GS David Khayat : Những tế bào ung thư, cũng như những tế bào lành mạnh, tất cả đều cần đến cholestérol để chế tạo màng tế bào của chúng, nhưng với lượng quan trọng hơn nhiều, bởi vì chúng tăng sinh nhanh hơn. Sự làm giảm nồng độ cholestérol bởi các statines cản trở sự phát triển của màng tế bào, ức chế sự tăng sinh của chúng và nguy cơ di căn. Do đó sự thặng dư cholestérol đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng sinh của các tế bào ung thư.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu khác phải chăng đã phát hiện tác dụng chống ung thư này ?
GS David Khayat : Về chủ đề này, y liệu có khá nhiều tranh cãi. Nếu những kết quả rất gần giống nhau đã có thể được quan sát và công bố trong các tạp chí “ Journal of the National Cancer Institute ” vào năm 2006, và trong “ Cancer ” vào năm 2010, những công trình nghiên cứu lớn khác, lần này được thực hiện trên những người lành mạnh (những nhóm 300.000 người chưa bao giờ bị ung thư) đã chứng minh rằng các statines đã không có một tác dụng phòng ngừa nào. Kết luận của các nhà nghiên cứu : những statines tác dụng lên những nguy cơ tái phát và tử vong, nhưng không tác dụng lên sự phòng ngừa bệnh ung thư.
Hỏi : Ông có nghĩ rằng một ngày nào đó ta sẽ kê đơn statines sau một chẩn đoán ung thư ?
GS David Khayat : Phải chờ đợi những kết quả được xác nhận bởi những công trình nghiên cứu khác trước khi xét đến việc kê đơn chúng cho những bệnh nhân bị một ung thư. Và điều đó đúng, nhất là khi đó là những sản phẩm có những tác dụng phụ.
Hỏi : Trong cuộc đấu tranh chống lại ung thư, những hy vọng nằm ở chỗ nào ?
GS David Khayat : Chẳng còn bao lâu nữa chúng ta sẽ có một y khoa cá thể hóa (médecine personnalisée) thật sự. Nhờ sinh học phân tử và những máy có khả năng séquencer các génome của các khối u (những nhiễm sắc thể của chúng) với một vận tốc không tưởng tượng nỗi, ta sẽ có thể đề nghị với mỗi bệnh nhân một điều trị theo từng cá thể (traitement sur mesure), điều trị này sẽ mang lại những cơ may chữa lành bệnh lớn nhất. Chẩn đoán phân tử này đã được thực hiện trong vài phòng thí nghiệm, trong đó có phòng thí nghiệm mà chúng tôi vừa mở ở bệnh viện Pitié-Salpêtrière.
(PARIS MATCH 3/1-9/1/2013)

9/ PHẢI CHĂNG PLACEBO THẬT SỰ ĐIỀU TRỊ ?
Professeur François Chast
Pharmacien hospitalier
Ancien président de l’Académie nationale de pharmacie

Lúc cho những “ viên thuốc chứa ruột bánh mì ” (pilules de mie de pain) cho vài trong số những bệnh nhân của mình, Corvisart, thầy thuốc của Napoléon, chỉ lập lại một kỹ thuật điều trị xa xưa, vì lẽ những thầy thuốc của Hy Lạp cổ đại đã không do dự kê đơn những mạng nhện hay bụi núi đá (poussières de roche) một cách thành công, họ biết rằng những sản phẩm buồn cười này sẽ không có một hiệu quả gì hết, nhưng trông mong vào thái độ nồng nhiệt lúc kê đơn để mang lại niềm tin cho bệnh nhân.
Ngày nay, các placebo có thể thật sự được xem như là những “ thuốc giả ” , theo ý nghĩa là chúng không chứa hoạt chất (produit actif). Nhưng buộc phải chứng thực rằng, trong hơn 35% các trường hợp, chúng có tác dụng.
Với những công trình nghiên cứu mới, từ nay ta biết rằng tác dụng placebo này xảy ra trong khung cảnh điều trị, trong đó có sự tham dự của bệnh nhân, người kê đơn thuốc, và có lẽ còn hơn thế nữa, mối quan hệ giữa hai người. Apprentissage, trí nhớ, động cơ, sự khen thưởng, sự giảm lo âu là bấy nhiêu những tham số tâm lý giải thích sự tác động của placebo, với hai động lực chủ yếu : hy vọng chữa lành bệnh và sự điều kiện hóa (condionnement), liên kết việc dùng thuốc (placebo hay không) với những thông điệp dương tính cải thiện sức khỏe.
Tác dụng placebo hiện hữu ở mọi lứa tuổi của đời sống, ngay cả ở những nhũ nhi, và ta không ghi nhận sự khác nhau rõ rệt tùy theo giới tính. Những tác dụng placebo có vẻ hiệu quả ít hay nhiều tùy theo bản chất của người bệnh và mối quan hệ với người thầy thuốc của mình, và tùy theo các căn bệnh. Ta cũng nhận xét rằng không những đau và những rối loạn có tính chất tâm lý như lo âu, mất ngủ, những rối loạn dạ dày ruột mà cả dị ứng cũng được cải thiện bởi placebo.
SẢN XUẤT DOPAMINE
Cường độ của nó cũng thay đổi tùy theo lối trình bày hay cách cho thuốc ; tùy theo tiếng tăm và sự quan hệ của người thầy thuốc thực hành, ông ta có gây niềm tin hay không, có tỏ ra chăm chú, có lắng nghe trạng thái tinh thần của người bệnh để phán đoán về sự tôn kính của bệnh nhân đối với uy quyền của chiếc áo trắng cũng như tùy thuộc vào ý chí lành bệnh hay bản chất của sự mong chờ của bệnh nhân.
Hiệu quả placebo chứng minh một cách rõ ràng rằng lễ nghi (rituel) của điều trị là một bộ phận của động tác trị liệu (acte thérapeutique). Chỉ ý tưởng nhận những săn sóc điều trị đã là một yếu tố thiết yếu đối với bệnh nhân, điều này y khoa hiện đại, vội vàng và thường thiên về kỹ thuật, không xét đến là bao nhiêu. Những tác dụng placebo không có tính chất vạn năng và nó không tác dụng trong những bệnh nặng như những nhiễm trùng huyết hay các ung thư. Tuy vậy, tác dụng của nó không chỉ có tính chất chủ quan, như điều đó đã được chứng tỏ trong lãnh vực chống đau. Nhờ những kỹ thuật chụp hình ảnh y khoa, ta đã có thể cho thấy rằng placebo gây nên cũng những biến đổi trong não bộ như morphine, và nhiều công trình nghiên cứu đã phát hiện một phần của hoạt tính placebo đối với điều trị nghiện héroine.
Vẫn trong lãnh vực thần kinh, người ta đã kiểm chứng rằng việc cho một placebo cho phép tăng cường hoạt động của các neurone sản xuất dopamine trong những vùng não bộ liên hệ trong sự phát khởi của bệnh Parkinson. Đó cũng là trường hợp ở những bệnh nhân bị chứng trầm cảm và trong những rối loạn lo âu (trouble anxieux). Trong những bệnh này, dưới tác dụng của một placebo, ta quan sát thấy những biến đổi của hoạt động điện của vài vùng của vỏ não và những tác dụng thần kinh sinh học (effet neurobiologique) lên enzyme cần thiết cho sự sản xuất sérotonine trong các neurone, điều này giải thích tại sao vài bệnh đau nửa đầu (migraine) có thể điều trị bởi một placebo. Cũng có liên hệ với placebo là những hệ miễn dịch và nội tiết. Thí dụ, một cách khá bất ngờ, điều trị kháng sinh chữa bệnh mụn có lẽ hoàn toàn là một hiệu quả placebo.
Nhiều thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng cách cho placebo cũng quan trọng như chính placebo : thí dụ, trong một thử nghiệm nhằm điều trị đau mãn tính, trong khi ở ngày thứ 15 những viên thuốc placebo tỏ ra hiệu quản hơn lên sự vận động, với cùng hoạt tính lên triệu chứng đau như một điều trị bằng châm cứu, sử dụng những “ huyệt ” cố ý được chọn lầm, sau 6 tuần, chính phương thức (approche) dùng châm cứu làm thuyên giảm tốt nhất triệu chứng đau sau 6 tuần.
SỰ ƯNG THUẬN ĐƯỢC ĐẢ THỐNG.
Thế thì phải chăng một thứ thuốc có thể bị giảm giá trị khi bị cho là “ placebo ” ?
Kê đơn placebo có thể hữu ích mỗi khi tác dụng không mong muốn có nguy cơ lần bước tác dụng điều trị. Trong bất cứ trường hợp nào, sự kê đơn “ vô hại ” này không được vi phạm những nguyên tắc đạo đức tôn trọng sự tự quyết và sự thỏa thuận được soi sáng (consentement éclairé) của bệnh nhân. Ngoài ra có những trường hợp hiệu quả placebo tác động một cách không giấu diếm, khi bệnh nhân ý thức hoàn toàn sự việc. Ngược lại, hãy coi chừng những “ placebo không thuần chất ”, như vitamine C hay những sản phẩm mà chất cơ bản là thực vật, có thể có một tác dụng dược học không liên hệ với rối loạn cần điều trị, với cái giá những tác dụng phụ thật sự và đôi khi nguy hiểm.
(LE FIGARO 24/9/2012)

10/ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT : NHỮNG TRUNG TÂM MỚI ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÁ THỂ HÓA.
GS Marion Leboyer, trưởng pôle psychiatrie của bệnh viện Henri-Mondor de Créteil, nữ giám đốc của Fondation FondaMental, giải thích những điều trị toàn thể mới cho phép nhưng liệu pháp cho từng cá thể (thérapie sur mesure) diễn ra như thế nào.
Hỏi : Hội nghị tâm thần học của Pháp mới đây cập nhật hóa những chiến lược mới nhất để điều trị bệnh tâm thần phân liệt. Những triệu chứng của bệnh này là gì ?
GS Marion Leboyer : Căn bệnh này thường bắt đầu một cách âm ĩ. Ta bắt đầu quan sát thấy ở những thiếu niên hay những người trưởng thành trẻ tuổi một khuynh hướng tự cô lập, một sự hững hờ tình cảm và những rối loạn khác nhau báo hiệu bệnh rất khó chẩn đoán. Bởi bệnh lý tiến triển thành từng cơn bộc phát với những đợt trong đó các triệu chứng sẽ trở nặng dần dần, với sự xuất hiện những ảo giác (hallucination), những ý tưởng mê sảng (idées délirantes), một sự thu mình xa lánh xã hội (retrait social), những khó khăn về nhận thức (sự ghi nhớ, khả năng tập trung, sự tổ chức những động tác thông thường của đời sống). Ở một giai đoạn tiến triển hơn, những bệnh nhân này không còn có những tương quan bình thường với những người chung quanh nữa. Trong những trường hợp cực kỳ trầm trọng, khi đó có một nguy cơ từ từ (hiện nay ta thống kê tỷ lệ 10%, với 40% toan tính tự tử). Do đó cần có một chẩn đoán sớm.
Hỏi : Tần số xảy ra của căn bệnh này là gì ?
GS Marion Leboyer : Trung bình 1% dân số bị bệnh này. Bệnh bắt đầu ở người trưởng thành trẻ tuổi giữa 16 và 25 tuổi. OMS xếp loại nó trong nhóm 10 bệnh lý dẫn đến phế tật nhất.
Hỏi : Phải chăng ta đã có thể khám phá những nguyên nhân của những rối loạn tư duy này ?
GS Marion Leboyer : Ta chưa biết được căn nguyên một cách chính xác, nhưng ta biết rằng bệnh tâm thần phân liệt là do sự tương tác giữa một thể địa di truyền (terrain génétique) có tính chất làm dễ và những yếu tố môi trường, như stress..
Hỏi : Bà vừa mới thành lập khoảng 10 trung tâm chuyên khoa. Những trung tâm này hoạt động như thế nào ?
GS Marion Leboyer : Mỗi trung tâm chuyên khoa (centre expert) gồm một kíp nhiều chuyên khoa với những thầy thuốc được đào tạo một cách đặc biệt để chẩn đoán và điều trị bệnh tâm thần phân liệt. Theo yêu cầu của kíp, bệnh nhân được thực hiện một bilan trong vòng 48 giờ (ở hôpital de jour), chủ yếu với những thăm khám tâm thần, thần kinh tâm lý (neuropsychologique), thần kinh, y khoa…các kết quả của những thăm khám này rất hữu ích cho chẩn đoán, mà ở Pháp nói chung chậm hơn nhiều (trung bình 5 năm). Một sự chậm trễ có những hậu quả quan trọng lên tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt. Sau đó các chuyên gia nhất trí để đề nghị những liệu pháp thích ứng nhất đối với khuyết tật của bệnh nhân.
Hỏi : Bà có những liệu pháp nào để ngăn cản sự tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt ?
GS Marion Leboyer : Sự xử trí toàn bộ bao gồm nhiều phương thức : phương thức dùng thuốc với các thuốc chống loạn thần (antipsychotique) (những loại mới nhất gây ít những tác dụng phụ hơn) và, điều đã tạo nên một bước tiến thật sự trong những năm qua, đó là liệu pháp tâm xã hội (thérapie psychosociale) và một vệ sinh đời sống tốt, nhất là chế độ ăn uống để tránh lên cân, cũng là một phần của những khuyến nghị.
Hỏi : Nhưng liệu pháp tâm lý xã hội này là gì ?
GS Marion Leboyer : Những liệu pháp này bao gồm, thí dụ, những buổi giáo dục tâm lý (psychoéducation) trong đó ta dạy cho bệnh nhân biết rõ căn bệnh của mình. Nếu hiểu căn bệnh, bệnh nhân sẽ nhận thức những nguy cơ của một sự không tuân thủ điều trị và sẽ theo đuổi tốt hơn. Ta cũng đề nghị những buổi “ remédiation cognitive ” để giúp đỡ các bệnh nhân cải thiện trí nhớ, khả năng chủ ý và tập trung của họ. Ta có thể ổn định nhưng không chữa lành căn bệnh.
Hỏi : Những hy vọng nằm ở chỗ nào ?
GS Marion Leboyer : Sau cùng ta bắt đầu có thể nhận diện những yếu tố di truyền làm cho những người dễ bị thương tổn hơn đối với vài yếu tố môi trường. Thí dụ, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế đã chứng minh rằng những người mang gène KTI có một nguy cơ lớn hơn phát triển một bệnh loạn thần khi họ sử dụng cannabis. Sự nhận biết những yếu tố này hẳn đưa lại sự hiệu chính những chiến lược phòng ngừa. Khám phá khác : những kết quả của một công trình nghiên cứu lớn ở châu Âu về vai trò của môi trường chứng mình rằng, trong những vùng đô thị, tần số của những bệnh loạn thần này hai lần cao hơn trong vùng thôn quê ! Bây giờ ta tìm cách biết tại sao. Hướng mới : hướng những bất thường của hệ miễn dịch sẽ cho phép thiết đặt những chiến lược điều trị mới. Những nghiên cứu trong tâm thần học đòi hỏi những phương tiện tài chánh.
(PARIS MATCH 13/12 – 19/12/2012)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(26/1/2013)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

1 Response to Thời sự y học số 294 – BS Nguyễn Văn Thịnh

  1. Pingback: Thời sự y học số 609 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s