Thời sự y học số 267 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ NHỮNG BÍ MẬT CỦA BỆNH LUPUS ĐƯỢC PHÁT HIỆN DẦN DẦN.

                BỆNH LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG
BỆNH TỰ MIỄN DỊCH MÃN TÍNH    
      – Hệ thống miễn dịch tấn công tất cả các tế bào của chính cơ thể bệnh nhân
NGUYÊN NHÂN 
      – Không được biết rõ : các yếu tố môi trường, kích thích tố và di truyền
TIẾN TRIỂN
      – Những thời kỳ gồm những cơn bộc phát và thuyên giảm
SỰ PHÁT KHỞI    
      – Stress, tiếp xúc với mặt trời, sử dụng các loại thuốc…
NHỮNG NGƯỜI CÓ NGUY CƠ 
      – Các phụ nữ từ 20 đến 40 tuổi.
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG.
        Tất cả các bộ phận của cơ thể có thể bị thương tổn :
            – Sốt, mệt mỏi, trạng thái trầm cảm.
            – Mảng đỏ hình mặt nạ chó sói (plaque rouge en masque de loup)
            – Các rối loạn hô hấp      
            – Loạn nhịp tim, suy tim   
            – Viêm thận         
            – Nhạy cảm với ánh mặt trời     
            – Nhạy cảm với lạnh     
            – Đau cơ
            – Sưng khớp

Căn bệnh có rất nhiều nguyên nhân này từ nay có những điều trị mới.
IMMUNITE. Đó là một trong những bệnh hiếm (maladie rare) thường được gặp nhất. LES hay Lupus érythémateux systémique (Lupus ban đỏ hệ thống), có tên như vậy là do một triệu chứng điển hình, mặc dầu chỉ hiện diện ở 60% các bệnh nhân : Một ban đỏ (érythème) ở mặt hình mặt nạ chó sói (masque de loup), phủ các gò má, các cánh mũi, trán và rìa chung quanh mắt. Căn bệnh tự miễn dịch (maladie auto-immune) này, trong đó hệ miễn dịch bị rối loạn quay lại chống những tế bào của chính bệnh nhân, được gọi là systémique (hệ thống) bởi vì bệnh có thể ảnh hưởng bất cứ cơ quan nào. Tiên lượng của bệnh vẫn nặng, nhưng đă cải thiện nhiều trong vòng vài năm. Khi bệnh được biểu hiện lên da, đôi khi khó phân biệt những thương tổn do lupus systémique với những thương tổn của một dạng khác của lupus, thuần túy ở da và hiền tính hơn.
Lupus systémiqe gây bệnh cho 20.000 đến 30.000 người ở Pháp. Căn bệnh này, được công nhận như là bệnh có thời gian tiến triển dài (affection de longue durée), gây bệnh cho 9 phụ nữ đối với 1 đàn ông, thường trẻ tuổi và trong thời kỳ hoạt động buồng trứng.
Lupus systémiqe gây bệnh cho 20.000 đến 30.000 người ở Pháp. Căn bệnh này, được công nhận như là bệnh co thoi gian tiến triển dài (affection de longue durée), gây bệnh cho 9 phụ nữ đối với 1 đàn ông, thường trẻ tuổi và trong thời kỳ hoạt động buồng trứng. Trong trường hợp điển hình, bệnh bắt đầu giữa 20 và 40 tuổi, nhưng trong 5% các trường hợp xuất hiện ngay từ thời thơ ấu (sự xuất hiện sớm của bệnh thường đồng nghĩa với sự trầm trọng), và cũng có thể phát bệnh ở người già.

CÁC KHÁNG THỂ CHỒNG NHÂN TẾ BÀO (ANTICORPS ANTINUCLEAIRES)
Bệnh biểu hiện một cách rất đa dạng. Dấu hiệu duy nhất thường có, trong số những bất thường miễn dịch học khác nhau, là sự hiện diện của những kháng thể chống nhân (anticorps antinucléaires) của tế bào, phải được tìm kiếm một cách hệ thống khi chẩn đoán. Nhưng nếu sự vắng mặt của những kháng thể chống nhân này cho phép loại bỏ bệnh lupus systémique, thì sự hiện diện của chúng không đủ để xác nhận chẩn đoán, bởi vì những kháng thể chống nhân cũng hiện diện trong những trường hợp khác.
“ Những biểu hiện thường gặp nhất của lupus hệ thống, da và khớp, hiện diện ở 80% các bệnh nhân 5 năm sau khi chẩn đoán ”, GS Zahir Amoura, người phụ trách Centre national de référence du lupus (CHU Pitié-Salpêtrière, Paris) đã giải thích như vậy. Những biểu hiện này được thể hiện bởi những thương tổn ở da (masque de loup và/hoặc những mảng đỏ hình đĩa) và và thường là một phong thấp viêm (rhumatisme inflammatoire) nhân là ở bàn tay và cổ tay. Được xem là khá hiền tính, bởi vì không ảnh hưởng lên một cơ quan sinh tử nào, dạng da-khớp (forme cutanéo-articulaire) này được kiểm soát tốt bởi điều trị. Thường tính nhạy cảm sáng (photosensibilité) đối với các tia tử ngoại làm trầm trọng bệnh.
Ít thường gặp hơn, nhưng thương tổn cơ quan cũng nghiêm trọng hơn. “ 20% những bệnh nhân có một thương tổn thận, trong vài năm có thể dẫn đến suy thận. Cũng ít thường xảy ra hơn, thương tổn của các màng thanh dịch (membrane séreuse) bao phủ tim hay các lá phổi có thể gây nên viêm ngoại tâm mạc (péricardite) hay viêm phế mạc (pleurésie), từ nay được điều trị tốt. Những rối loạn huyết học, thiếu máu hay giảm tiểu cầu, đôi khi xuất hiện, và hiếm hơn những thương tổn của hệ thần kinh trung ương, có thể dẫn đến một bệnh loạn tâm thần (psychose), G Eric Hachulla (CHRU Lille) đã xác nhận như vậy. Bệnh có thể được mở đầu bởi thương tổn của bất cứ cơ quan nào và có thể trầm trọng tức thời. Khi bệnh bắt đầu dưới dạng da-khớp (forme cutanéo-articulaire), dạng này thường riêng rẻ, nhưng nguy cơ thương tổn tạng, nhất là thận, vẫn quan trọng, nhất là 5 năm đầu tiên ”.
Lupus tiến triển bằng những cơn bộc phát. Trung bình, mỗi người bệnh sẽ lên hai đợt bộc phát trong suốt cuộc đời mình, đợt thứ hai có thể xảy ra 10 đến 15 năm sau cơn bộc phát đầu tiên. Vậy đó thật sự là một bệnh mãn tính, do đó việc điều trị phải đều đặn và được theo dõi, GS Amoura đã nhấn mạnh như vậy

NHẠY CẢM DI TRUYỀN
Là bệnh do nhiều yếu tố (maladie multifactorielle), lupus là kết quả của sự gặp gỡ của một thể trạng đặc biệt và những yếu tố của môi trường. Các cơ chế gây bệnh phức tạp và có lẽ thay đổi đối với mỗi bệnh nhân. Những biến thể của nhiều gène, do biến đổi một ít chức năng của chúng, gây nên một tính nhạy cảm di truyền (susceptibilité génétique). “ Chúng chi phối các cytokine có nhiệm vụ đảm bảo sự liên lạc giữa các tế bào, như interféron alpha, các yếu tố của complément huyết thanh, có can dự trong đáp ứng miễn dịch, các thụ thể của những tế bào lympho…Các gène có liên quan trong sự thanh lọc các corps apoptotique cũng bị liên hệ : quá trình loại bỏ những mảnh vỡ tế bào chết này thường bị khiếm khuyết ở những bệnh nhân bị bệnh lupus ”, GS Jean-Yves Viallard (CHU Bordeaux) đã giải thích như vậy. Những biến thể này mang lại một thể địa thuận lợi để phát triển bệnh lupus.
Nhưng điều đó không đủ. “ Những yếu tố môi trường cũng phải can thiệp lên thể trạng này.Việc tiếp xúc với các tia cực tím, do phá hủy các tế bào của da, sẽ khiến nhiều mảnh vỡ tế bào hơn tiếp xúc với một hệ thống miễn dịch đã suy yếu, có khuynh hướng tạo những tự kháng thể (auto-anticorps) hướng chống lại nhân của các tế bào, điều này sẽ kích hoạt nó và phát khởi một đợt bộc phát. Cũng tương tự như vậy đối với những nhiễm trùng do virus thông thường, như virus Epstein-Barr hay cytomégalovirus ”, thầy thuốc đã giải thích như vậy.

CÓ THỂ CÓ THAI
Còn về các kích thích tố nữ, “ các oestrogène làm dễ sự sản xuất các kháng thể chống ADN (anticorps anti-ADN), do đó gây nên sự gia tăng của bệnh lupus trong thời kỳ thai nghén, trong khi đó bệnh lại thuyên giảm trong thời kỳ mãn kinh. Ngày nay bệnh lupus không còn cấm chỉ việc mang thai nữa. Vài loại thuốc, các thuốc chống động kinh, các betabloquant, anti-TNF, v…v.., khi dùng để điều trị lâu dài gây nên một bệnh lupus nhưng thường thoái lui sau khi ngừng thuốc.
Sự điều trị bệnh lupus đã tiến bộ nhiều, và tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng và biến chứng thận của bệnh lupus đã sụt giảm trong vòng 30 năm, mặc dầu một tỷ lệ tử vong do nguyên nhân tim mạch vẫn còn tồn tại.
(LE FIGARO 2/4/2012)

2/ TÍNH CHẤT PHỨC TẠP CỦA LUPUS DA
Theo lệ thường ta chia biểu hiện da của lupus thành hai bệnh : lupus hệ thống (lupus systémique), có thành phần tự miễn dịch mạnh và có tiềm năng nghiêm trọng, và lupus da đơn thuần (lupus cutané pur), hiền tính hơn nhiều. “ Chia như thế hơi có vẻ sơ đồ, GS Camille Francès, thầy thuốc chuyên khoa da (bệnh viện Tenon, Paris) đã đánh giá như vậy. Thật thế có 3 dạng lupus có biểu hiện ở da. Dạng thứ nhất, lupus cấp tính, trong hơn 90% các trường hợp được liên kết với lupus hệ thống (lupus érythémateux systémique). Lupus dạng này chủ yếu được biểu hiện bởi ban đỏ ở mặt dưới dạng mặt nạ chó sói.” Dễ được nhận biến, lupus có biểu hiện ở da này tiến triển song song với lupus hệ thống.
“ Hai dạng da khác, lupus bán cấp và lupus mãn tính, đặt nhiều khó khăn hơn. Lupus bán cấp riêng rẻ trong 50% các trường hợp, và trong 50% các trường hợp liên kết với một lupus hệ thống, đồng thời tiến triển độc lập với lupus này. Nó có một khía cạnh rất đặc biệt, với những thương tổn hình vòng (lésion annulaire) hay tương tự với bệnh vẩy nến (psoriasis) và đôi khi cũng có ban đỏ điển hình ở mặt.” Ảnh hưởng nhất là phần trên của thân mình, đó là dạng nhạy cảm nhất đối với các tia tử ngoại.
“ Dạng thứ ba, mãn tính, chỉ liên kết trong 10% đến 20% các trường hợp với lupus hệ thống. Vậy trong phần lớn các trường hợp lupus dạng này vẫn tiếp tục tiến triển mặc dầu lupus hệ thống đã được ổn định. ” Những thương tổn có thể có những dạng vẻ khác nhau. “ Những thương tổn thường gặp nhất, dạng hình đĩa (forme discoide), nằm chủ yếu ở mặt. Những thương tổn này là một cấp cứu thẩm mỹ cần điều trị rất nhanh, nếu không chúng để lại những sẹo vĩnh viễn và một chứng hói (alopécie cicatricielle) trên da đầu ”, thầy thuốc chuyên khoa đã giải thích như vậy. Khi đó là những thương tổn hình đĩa (lésions discoides) rải rác trên khắp cơ thể, căn bệnh thường nhất liên kết với một lupus hệ thống. Khi các thương tổn da liên kết với lupus hệ thống này, chúng thường là dấu hiệu mở màn của bệnh.
Chẩn đoán dựa trên những đặc điểm lâm sàng, được xác nhận bởi một sinh thiết của da và bởi sự tìm kiếm những kháng thể đặc hiệu để kiểm tra xem đó có phải là lupus hệ thống hay không. Việc tìm kiếm các kháng thể đặc hiệu đôi khi định hướng chẩn đoán bởi vì vài tự kháng thể đặc hiệu với lupus bán cấp.
Việc điều trị thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng. Những thể nhẹ, không gây sẹo, có thể được điều trị với các corticoides tại chỗ (dùng ngoài), trong tối đa một tháng, bởi vì sau đó có một nguy cơ teo da vĩnh viễn. Khả năng khác, tacrolimus, một chất làm suy giảm miễn dịch, cũng dùng điều trị tại chỗ.

ĐIỀU TRỊ KHÔNG ĐỦ LIỀU.
Hydroxychloroquine (Plaquenil) bằng đường tổng quát là điều trị chính. Có 3 lợi ích : thuốc này điều trị lupus da, những dạng khớp nhẹ liên kết, và phòng ngừa cơn bộc phát toàn thân. Khi điều trị này không hiệu quả phải kiểm tra xem thuốc đúng là đã được sử dụng hay không. 10% các bệnh nhân với lupus đã không theo điều trị, và nhiều người dùng thuốc điều trị không đủ liều. Một công trình nghiên cứu mới sẽ cho phép chúng ta xem nếu ta gia tăng liều lượng bình thường của hydroxychloroquine ở những bệnh nhân đề kháng, ta có thành công điều trị bệnh lupus của những bệnh nhân này hay không. Thật vậy mức độ nhạy cảm đối với điều trị thay đổi tùy theo cá thể.
Ta cũng có thể thay thế hydroxychloroquine bằng chloroquine, đôi khi hiệu quả đối với các lupus da. Trong những thể thật sự đề kháng, thalidomide cho phép điều trị hơn 90% những trường hợp, nhưng với một độ dung nạp tồi.
(LE FIGARO 2/4/2012)

3/ BỆNH LUPUS : TA BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN CỦA SINH LIỆU PHÁP
Sự điều trị bệnh lupus hệ thống (lupus érythémateux systémique) dựa trên hai chiến lược : một điều trị nền (traitement de fond) của bệnh mãn tính để làm dịu bớt hoạt tính của hệ miễn dịch và trong các cơn bộc phát, một giáng trả có chuẩn độ (riposte graduée) tùy theo loại và mức độ nghiêm trọng của thương tổn.
Điều trị nền đối với tất cả dạng bệnh, dầu mức độ nghiêm trọng của bệnh thế nào, dựa trên một loại thuốc vốn được phát triển trong một mục đích khác, hydroxychloroquine (Plaquenil), một thuốc chống sốt rét tổng hợp. “ Đó là một điều trị chuẩn. Cơ chế tác dụng của nó vẫn còn không được biết rõ, nhưng những bệnh nhân được điều trị với hydroxychloroquine có những thương tổn tạng ít hơn, một tỷ lệ sinh tồn tốt hơn, ít các cơn bộc phát hơn và những tác dụng chuyển hóa có lợi ”, GS Hachulla đã nhấn mạnh như vậy. Đó là một điều trị dài ngày, ít nhất sẽ kéo dài 5 năm.
Điều trị các đợt bộc phát được phân biệt hơn. “ Ngoài Plaquenil, các thể nhẹ ngoài da (formes mineures cutanées) được điều trị với các corticoides dùng tại chỗ và nếu cần với các thuốc làm suy giảm miễn dịch như méthotrexate hay thalidomide, những thương tổn phong thấp (atteintes rhumatologiques) được điều trị với những liều nhỏ corticoides và méthotrexate. Các thầy thuốc bệnh khớp cũng thường kê đơn các AINS, nhưng những thuốc này gây nhạy cảm sáng (photosensibilisant) và đôi khi kém chịu được, GS Amoura đã giải thích như vậy. Những thương tổn với mức độ nghiêm trọng trung bình và những thương tổn của các thanh dịch đáp ứng rất tốt với prednisone liều trung bình. Điều trị các thương tổn thận dựa trên các corticoides và sự sử dụng lâu dài (ít nhất 2 năm) những thuốc làm suy giảm miễn dịch khác, cyclophosphamide hay mycophénolate mofétil (Cellcept), đồng thời cố giảm tối đa các corticoides và các thuốc làm suy giảm miễn dịch sau cơn bộc phát. Về những thương tổn thần kinh hay tâm thần, chúng có thể có những mức độ nghiêm trọng khác nhau, và việc điều trị chúng thuộc về những trung tâm chuyên khoa.

THUỐC MỚI
Ngoài điều trị nền bằng hydroxychloroquine, bệnh nhân phải học quản lý căn bệnh của mình, ngăn ngừa những cơn bộc phát, và không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, hủy bỏ thuốc lá, tránh các œstrogène đối với phụ nữ. Đối với GS Amoura, “ cái khó khăn chính là tuân thủ điều trị. Ta hằng nghĩ rằng mức độ nghiêm trọng của bệnh sẽ khiến tất cả các bệnh nhân tuân thủ tốt điều trị của mình. Nhưng không hẳn là như vậy : chỉ 60% các bệnh nhân còn theo đuổi điều trị sau một năm. Do đó tầm quan trọng giáo dục điều trị bởi vì đó là một bệnh mãn tính. Ngoài ra chúng tôi xây dựng một chương trình giáo dục điều trị với các hiệp hội các bệnh nhân, đồng thời hy vọng mở rộng chương trình điều trị này đến tất cả các trung tâm chuyên môn vùng đối với bệnh lupus.
Trong những thể rất nặng của lupus hệ thống, đề kháng đối với điều trị, một loại thuốc mới chẳng bao lâu sẽ được sử dụng, bélimumab. “ Kháng thể đơn dòng (anticorps monoclonal) này được hướng chống lại một cytokine, BlyS, có liên hệ trong những cơ chế của lupus hệ thống vì lẽ đó là một yếu tố tăng trưởng của các tế bào lympho B chịu trách nhiệm sự sản xuất của các tự kháng thể. Vậy belimumab là sinh liệu pháp (biothérapie) đầu tiên đặc hiệu với bệnh này, GS Viallard đã giải thích như vậy. Những loại thuốc khác đang được thử nghiệm, như atacicept, được hướng đồng thời chống lại BlyS và APRIL, một cytokine khác kích thích sự tăng sinh của các tế bào lympho B.” Những anti-interféron cũng đang được nghiên cứu nhưng ở một giai đoạn ít tiến triển hơn. “ Nhưng nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải quyết. Thí dụ, ta vẫn không biết tại sao những tế bào lympho T điều hòa (lymphocytes régulateurs), bình thường điều hòa tính miễn dịch và loại bỏ các tự kháng thể, lại không đóng vai trò kềm hãm này trong bệnh lupus.”
(LE FIGARO 2/4/2012)

4/ SAU CÙNG MỘT LIỆU PHÁP NHẮM ĐÍCH (THERAPIE CIBLEE) CHỐNG LẠI BỆNH LUPUS
Xavier Marinette là chef du service de rhumatologie của hôpital Bicetre (Kremlin-Bicetre)
Hỏi : Cơ quan dược phẩm Hoa Kỳ vừa cho phép loại thuốc chống bệnh lupus đầu tiên từ 56 năm nay. Nguyên tắc của thuốc này là gì ?
Xavier Marinette. Trong bệnh lupus, cũng như bất cứ bệnh tự miễn dịch nào, hệ miễn dịch tấn công chính mô của cơ thể mà nó có nhiệm vụ bảo vệ. Loại thuốc mới, được mệnh danh là belimumab (Benlysta), là một kháng thể được chế tạo để chống lại phản ứng bất thường này của phòng vệ cơ thể. Được tiêm vào bệnh nhân, chất kháng thể này có khả năng phong bế tác dụng của một protéine chủ chốt trong phản ứng bất thường này : protéine BAFF. Với phương cách này, kháng thể được tiêm vào làm giảm sự sản xuất, bởi các bạch cầu, vài kháng thể có tác dụng phá hủy những tê bào của các bộ phận khác nhau của cơ thể và tạo nên những thương tổn ở da, khớp, thận, tim hay hệ thần kinh.
Hỏi : Đó có phải là một tiến bộ quan trọng để điều trị bệnh lupus ?
Xavier Marinette : Vâng, bởi vì đó là thuốc đầu tiên của sinh liệu pháp nhắm đích (biothérapie ciblée) chống lại bệnh lupus, nói một cách khác dùng một kháng thể hay một phân tử đề phong bế một quá trình chính xác ở tế bào. Từ cuối những năm 1990, sinh liệu pháp nhắm đích đã biến đổi sự điều trị những bệnh tự miễn dịch khác như viêm đa khớp dạng thấp. Thế mà cho mãi đến nay, mặc dầu nhiều thử nghiệm, không có một điều trị nào thuộc loại này đã tỏ ra hiệu quả chống lại bệnh lupus. Điều trị hiện nay dựa trên những loại thuốc làm giảm viêm và đau, và những thuốc làm suy giảm miễn dịch (immunosuppreseur). Những loại thuốc này hiệu quả vì chúng làm giảm hoạt tính của hệ miễn dịch ; nhưng chúng kèm theo những tác dụng phụ quan trọng, trong đó một nguy cơ gia tăng bị nhiễm trùng. Vậy cần những điều trị mới cho căn bệnh mãn tính này, gồm những giai đoạn bộc phát đôi khi trầm trọng, luân phiên với những giai đoạn thuyên giảm, ảnh hưởng chủ yếu các phụ nữ trẻ.
Hỏi : Tính hiệu quả của loại thuốc này là gì ?
Xavier Marinette. Thuốc vừa tỏ ra có hiệu quả để làm giảm các triệu chứng trong một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 được tiến hành trên 867 bệnh nhân, trong 13 nước : tỷ lệ đáp ứng với điều trị được đánh giá sau một năm là 58% đối với những bệnh nhân nhận điều trị cổ điển cộng với belimumab, so với 44% đối với những bệnh nhân chỉ nhận điều trị cổ điển cộng với placebo. Nhưng chủ yếu, thuốc đã cho phép giảm một nửa những cơn bộc phát nghiêm trọng so với placebo và đã cho phép giảm liều của điều trị cổ điển. Ngoài ra, thuốc được dung nạp tốt. Mặc dầu vậy, thuốc sẽ không cho phép điều trị nhanh chóng những đợt bộc pháp nghiêm trọng, vì lẽ hiệu quả chỉ xuất hiện sau 3 đến 4 thnag. Đúng hơn đó là một điều trị nền (traitement de fond), tác động dần dần.
Hỏi : Chẳng bao lâu thuốc sẽ được cho phép ở Châu Âu ?
Xavier Marinette. Việc cho phép đưa ra thị trường của loại thuốc này ở Hoa Kỳ dẫu sao là dấu hiệu tốt đối với sự cho phép ở châu Âu. Cơ quan dược phẩm châu Âu sẽ ra quyết định từ nay đến cuối năm. Ngoài ra, những điều trị khác thuộc loại này, có lẽ hiệu quả hơn, đang được thử nghiệm lâm sàng và sự thành công của belimumab có lẽ sẽ khuyến khích phát triển chúng.
(LA REHERCHE 5/2011)

5/ TẠI SAO ÍT NGƯỜI BỊ LỆ THUỘC RƯỢU ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ ?
Professeur Michel Lejoyeux
– Professeur de psychiatrie et d’addictologie Faculté de médecine de Paris VII
– Chef de service de psychiatrie et d’addictologie Hôpital Bichat et Maison-Blanche
– Président de la Société d’alcoologie

                                 NHỮNG CON SỐ
8% những người Pháp từ 12 đến 75 tuổi tuyên bố đã không bao giờ uống rượu trong suốt cuộc đời mình. 
1 giờ : Đó là thời gian trung bình cần thiết sau khi uống rượu để nồng độ cồn trong máu (alcoolémie) đạt đến tối đa.
95% rượu được uống vào được thải qua gan, phần còn lại được thải qua nước tiểu, mồ hôi, khí thở ra và nước miếng.
10 g : Đó là lượng cồn nguyên chất được chứa trong một liều rượu như thường được phục vụ.

Lạm dụng (abus) hay lệ thuộc (dépendance) rượu liên hệ đến gần 10% toàn dân Pháp. Một công trình nghiên cứu mới đây đã được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Société française d’alcoologie trong 3 sites d’urgences (Paris, Versailles, Bordeaux). Kết quả cho thấy, trong số những bệnh nhân được khám cấp cứu, 9% có những dấu hiệu của một sự sử dụng bệnh lý rượu. Không một bệnh nhân nào trong số những người này đã yêu cầu một cách ngẫu nhiên một sự hỗ trợ đối với tình trạng lệ thuộc của họ và không một ai nhận được một sự giúp đỡ. Vậy sự lệ thuộc rượu (dépendance à l’alcool) vẫn là một bệnh thường xảy ra và không được đánh giá đúng.
Nhiều yếu tố góp phần vào sự không nhận biết vấn đề. Yếu tố đầu tiên là sự thiếu thông tin về những tiêu chuẩn của tỉnh trạng lệ thuộc rượu. Khác với những bệnh khác mà những dấu hiệu bắt đầu được biết, những tiêu chuẩn của tình trạng lệ thuộc này này không đủ. Những dấu hiệu chính của tỉnh trạng lệ thuộc rượu là : mất sự kiểm soát (perte de contrôle) về việc tiêu thụ rượu ; tình trạng cố định của những thói quen tiêu thụ ; sự theo đuổi một sự tiêu thụ mặc dầu những tổn hại gây nên bởi alcoolisation.

KHÔNG CÓ LIỀU NGƯỠNG (DOSE SEUIL)
Định nghĩa của tình trạng lệ thuộc rượu (dépendance à l’alcool), như ta thấy, không liên quan đến lượng rượu được tiêu thụ, nhưng đúng hơn là một mối quan hệ phụ thuộc giữa một người và một sự tiêu thụ. Đây không có liều ngưỡng (dose seuil), qua đó ta được xem là lệ thuộc hay không. Một tiêu chuẩn khác chỉ sự lệ thuộc là sự việc những người lệ thuộc (dépendant) không nhất thiết phải uống mỗi ngày. Một alcoolisation vào cuối tuần, nếu trở nên lặp đi lặp lại và đều đặn, có thể tương ứng với những tiêu chuẩn hiện đại của tình trạng lệ thuộc. Alcoolisation đã thay đổi, những dạng bệnh lý của nó cũng thế.
Những tác dụng có hại của sự lệ thuộc rượu lên tình trạng y khoa cũng không được nhận định rõ. Đôi khi chúng giải thích tình trạng thụ động của những người bị lệ thuộc hay những người chung quanh đứng trước sự tiêu thụ rượu bệnh lý. Sự lệ thuộc rượu làm gia tăng nguy cơ tự tử. Nó là nguồn gốc của những hành vi hung bạo hay hung dữ đối với chính mình và những người chung quanh. Chứng lệ thuộc này cũng là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ung thư và rối loạn trí tuệ. Sau bệnh Alzheimer và chứng sa sút trí tuệ do nguyên nhân huyết quản (démence vasculaire), sự lệ thuộc rượu là nguyên nhân thứ ba của tình trạng sa sút trí tuệ.
Sự lệ thuộc rượu liên hệ đến các ông hơn các bà. Tuy nhiên các phụ nữ cũng bị lệ thuộc, và lại nữa việc không nhận biết rối loạn là rất quan trọng. Những tình huống stress nghề nghiệp hay những khó khăn trong nội bộ gia đình làm cho nhiều phụ nữa phải nhờ đến alcoolisation và chẳng bao lâu trở thành nghiện ngập. Dạng alcoolisation này, với mặc cảm xấu hổ và tội lỗi lại còn thường không được nhận rõ và thường ít được điều trị. Những tổn hại do tình trạng lệ thuộc tuy vậy xảy ra sớm và trầm trọng ở phụ nữ. Trong thời kỳ thai nghén, thai nhi bị ngộ độc rượu còn hơn là mẹ. Ở tất cả những lúc khác của cuộc đời, rượu làm gia tăng nguy cơ ung thư và đặc biệt là ung thư vú.

BẢNG CÂU HỎI PHÁT HIỆN
Bảng câu hỏi phát hiện (questionnaire de dépistage) đơn giản cho phép xác định những trường hợp nghiện rượu (addiction à l’ alcool). Một câu trả lời dương tính với một trong bốn câu hỏi sau đây gợi ý một tình trạng khó khăn với rượu :
– Anh đã thử giảm uống rượu chưa ?
– Những người chung quanh anh có đã đưa ra những nhận xét về việc uống ruợu của anh chưa ?
– Anh có cảm giác rằng anh uống quá nhiều không ?
– Có khi nào anh uống ngay vào buổi sáng chưa ?
Sự phổ biến bảng câu hỏi này được đề nghị bởi Société française d’ alcoologie. Nó cho phép phát hiện nhiều người trong tình trạng khó khăn và do đó được điều trị.
Bệnh rượu (maladie acoolique) cũng bị chối không chịu nhận (déni) bởi vì nó làm lo âu những người uống nhưng không gặp những vấn đề gì rắc rối và ngạc nhiên rằng một sản phẩm có vẻ bình thường, dễ chịu và convivial lại có thể gây bệnh. Người ta đã chứng minh rõ ràng ở Pháp văn hóa ruợu (culture de l’alcool) và nghệ thuật sống làm ít cảnh giác hơn đối với những dấu hiệu lệ thuộc ruợu. Sự ý thức đã xảy ra đối với sự lệ thuộc các chất ma túy, với thuốc lá. Sự ý thức này chậm trễ đối với rượu, vì sản phẩm này trước hết có vẻ như hédoniste, như một sản phẩm tốt hay một produit du terroir.

DENI CÁ NHÂN
Việc không công nhận tập thể những nguy hiểm của rượu làm dễ những thái độ cá nhân từ chối không chịu nhận. Việc không công nhận này khuyến khích thái độ của các bệnh nhân bảo “ tôi uống như tất cả mọi người ”.
Những người trong tình trạng khó khăn với rượu như vậy bị hai chối nhận. Căn bệnh của họ không được xem như là một căn bệnh thật sự, nhưng đôi khi như là một sự thiếu ý chí, một tật xấu hay một sự yếu lòng. Đồng thời, hành vi của họ có vẻ bat tri nhân danh những niềm tin sai lạc khó chống lại như “Kẻ nào đã uống sẽ uống ” (Qui a bu boira).
Một phương thức y khoa, không chê trách cũng không thỏa hiệp, là giải pháp duy nhất. Phương pháp này sẽ cho phép một số lượng người lớn hơn biết những nguy cơ của tình trạng lệ thuộc nhưng không phải từ bỏ một sự tiêu thụ bình thường. Nó cũng cho phép rằng căn bệnh này, một trong những căn bệnh nghiêm trọng nhất ve mặt ảnh hưởng lên sức khỏe công cộng, được điều trị bằng những phương pháp toàn bộ, quan hệ (relationnelle) hay tâm lý, y khoa và gia đình. Những kỹ thuật này có hiệu quả nhưng không có bao nhiêu người bị liên hệ nhờ đến nó.
(LE FIGARO 26/3/2012)

6/ PHẢI CHĂNG THẬT SỰ CÓ NHỮNG ĐIỀU TRỊ ĐỐI VỚI CHỨNG NGHIỆN RƯỢU ?
Professeur Henri-Jean Aubin
Professeur à la faculté de médecine Paris-Sud
Chef de service d’addictologie
Hôpital Paul-Brousse (Villejuif)

Mặc dầu một sự nhận thức thường bi quan, việc điều trị những rối loạn liên quan đến rượu thường mang lại sự thành công. Khoảng 50 đến 60% các bệnh nhân được cải thiện một năm sau điều trị, và một sự thay đổi như thế thường có một sự ổn định tốt trong một thời kỳ từ 3 đến 5 năm. Mặc dầu tất cả các bệnh nhân của chúng ta có khả năng cải thiện, nhưng một vài người dường như có cơ may lành bệnh ; không có gì phải ngạc nhiên, đó thường là những bệnh nhân có những vấn đề về rượu ít nghiêm trọng nhất, nhận được một điều trị tích cực nhất, có ít thương tổn nhận thức (atteinte cognitive) nhất (sự chú ý, trí nhớ, lý luận), thường tin tưởng nhất về khả năng tiến bộ của mình hay không bị những rối loạn tâm thần liên kết.

TÂM LÝ LIỆU PHÁP VÀ THUỐC.
Những phương pháp tâm lý liệu pháp thường dùng nhất hiện nay và được chuẩn nhận tốt nhất là những can thiệp ngắn, cuộc mạn đàm gây động cơ (entretien motivationnel) và những liệu pháp hành vi-nhận thức (thérapie cognitivo-comportementale). Hiếm hơn những phương thức hệ thống (approche systémique) hay tâm lý động lực (psychodynamique) được đề nghị. Những phương thức tập trung vào bệnh nhân, nhằm để cho bệnh nhân lựa chọn giữa sự kiêng khem(abstinence) hoàn toàn hay một sự giảm quan trọng tiêu thụ. Thường nhất kiêng khem sẽ là đích được chọn cuối cùng bởi các bệnh nhân bị lệ thuộc nhất.
Những điều trị bằng thuốc ngày nay có một chỉ định trong điều trị tình trạng lệ thuộc rượu (alcoolodépendance) chủ yếu nằm trong một chiến lược kiêng rượu. Trong những trường hợp này, điều trị bằng thuốc hiện nay được chia thành hai giai đoạn : điều trị hội chứng cai rượu (syndrome de sevrage), rồi ngăn ngừa tái phát hay giúp duy trì sự kiêng khem.

HỘI CHỨNG CAI NGHIỆN
Điều trị hội chứng cai rượu chỉ liên hệ đến những người phát triển những dấu hiệu cai nghiện (hay thiếu), hoặc khoảng ½ những bệnh nhân lệ thuộc rượu : run rẩy, ra mồ hôi, nôn hay mửa, lo lắng, không yên (agitation), mất ngủ, và đôi khi những cơn co giật. Ở những bệnh nhân phát triển những dấu hiệu cai nghiện, điều trị ưu tiên dựa vào những thuốc an thần loại benzodiazépines, được kê đơn trong vài ngày.

NGĂN NGỪA TÁI PHÁT
Giai đoạn hai của điều trị dược học nhằm ngăn ngừa tái phát và duy trì tình trạng kiêng khem. Đó là một điều trị kéo dài, từ vài tháng đến một năm. 3 loại thuốc hiện nay được sử dụng trong chỉ định này : acamprosate (Aotal, Campral), naltrexone (ReVia, Nalorex) và disulfirame (Espéral, Antabuse). 3 loại thuốc này nhắm vào những người cai rượu, mong muốn duy trì tình trạng kiêng khem. Acamprosate cho phép giảm 16% tỷ lệ uống trở lại ly đầu tiên, naltrexone cho phép giảm 12% tỷ lệ trở lại một sự tiêu thụ quá mức sau một ly đầu tiên. Disulfirame tác dụng theo một cơ chế can ngăn (mécanisme de dissuasion), vì lẽ nó gây nên những triệu chứng rất khó chịu trong trường hợp tiếp tục uống rượu. Nó cho phép gia tăng những tỷ lệ thành công khi bệnh nhân theo đúng nguyên tắc này và khi việc dùng thuốc được giám sát bởi những người chung quanh hay bởi kíp điều trị.

NHỮNG GIẢI PHÁP THAY THẾ THUỐC.
Một hãng bào chế Đan Mạch đã phát triển một loại thuốc mới nhắm làm giảm sự tiêu thụ ở những người lệ thuộc rượu. Tính hiệu quả và sự an toàn sử dụng của loại thuốc này đã được chứng tỏ rõ : nó sẽ được thương mại hóa ở Pháp trong năm 2013 dưới tên Selincro. Loại thuốc này sẽ mang lại một câu trả lời cho nhiều ngườiệ thuộc rượu không thể chấp nhận tình trạng kiêng khem hoàn toàn.
Một hãng bào chế Pháp hiện đang phát triển một loại thuốc khác nhằm làm dễ sự cai nghiện và duy trì sự kiêng khem rượu : Alcover. Loại thuốc này đã được thương mại hóa trong chỉ định này từ hơn 10 năm nay ở Ý và Áo với kết quả thỏa mãn. Tuy nhiên cần những công trình nghiên cứu mới trước khi được thương mại hóa trên quy mô châu Âu và Pháp. Theo dự kiến, một công trình nghiên cứu sẽ bắt đầu ở châu Âu trong thời gian gần đây, và đặc biệt là trong khoảng 30 trung tâm ở Pháp.
Sau cùng, phải nói về baclofène (Liorésal). Đó là một loại thuốc đã cũ, bình thường được chỉ định để điều trị những ảnh hưởng lên cơ của vài bệnh thần kinh. Mặc dầu không có chỉ định chính thức trong điều trị lệ thuộc rượu, nhưng ngày nay thuốc này được kê đơn khá rộng rãi mặc dầu không được cho phép thương mãi hóa (“hors AMM ”, nghĩa là ngoài chỉ định và những liều lượng bình thường được khuyến nghị. Có nhiều chứng cớ cho thấy những bệnh nhân thuyên giảm không còn thèm uống, nói chung với những liều rất cao. Tính hiệu quả và sự an toàn sử dụng hiện nay chưa được nghiên cứu nghiêm túc với những liều lượng này, điều này khiến Afssaps (Agence française de sécurité sanitaire des produits de santé) công bố vào tháng sau năm 2011 một lời cành cáo về việc sử dụng ngoài sự cho phép của baclofène trong điều trị lệ thuộc rượu. Trong một thời gian gần đây, những công trình nghiên cứu sẽ được thực hiện ở Pháp trong những trung tâm bệnh viện và trong y khoa thành phố (médecine de ville)

NHẬP VIỆN
Những chỉ định nhập viện thay đổi. Mọi tiền sử có cơn co giật hay delirium tremens phải hướng sự điều trị về một trung tâm cai nghiện. Ta cũng dễ dàng nhờ đến sự nhập viện trong trường hợp tình trạng toàn thân rất suy kém, khủng hoảng tâm lý hay trong trường hợp môi trường xã hội tác hại. Một chỉ định khác dĩ nhiên là sự thất bại liên tiếp trong việc điều trị ngoại trú.
(LE FIGARO 26/3/2012)

7/ NGHIỆN RƯỢU : NHỮNG KẾT QUẢ TỐT CỦA BACLOFENE.
Một công trình nghiên cứu phát hiện một tỷ lệ hiệu quả 58% của loại thuốc này trong điều trị chứng nghiện rượu (addiction à l’alcool).
ADDICTION. Olivier Ameisen, thầy thuốc chuyên khoa tim, đã điều trị chứng nghiện rượu của chính mình cách nay 8 năm, bằng cách sử dụng với liều mạnh một loại thuốc thường được sử dụng trong thần kinh học, baclofène. Sau nhiều năm thất bại trong cố gắng chống lại gin và whisky, ông đã trắc nghiệm loại thuốc này, sau cùng đã giải phóng ông và làm cho ông trở nên hững hờ với rượu. Trong một tác phẩm nhan đề Le Dernier Verre, trong đó ông kể lại descente aux enfers và sự hồi sinh của mình, vào năm 2008, ông đã quyết định cho biết điều trị này, để các công trình nghiên cứu được phát động để đánh giá hiệu quả của baclofène chống lại rượu. Sau nhiều khó khăn và những cuộc tranh cãi khác nhau, kết quả của công trình nghiên cứu đầu tiên với baclofène được sử dụng với liều cao, được công bố tuần này trong tạp chí Alcohol Alcoholism, tiết lộ một tính hiệu quả không thể tranh cãi được.

SỰ ĐÁNH GIÁ
Công trình nghiên cứu này, được tiến hành dưới sự chỉ đạo của GS Philippe Jaury (Paris-V), đã được thực hiện với sự cộng tác của nhiều thầy thuốc, và nhất là Renaud Beaurepaire. Những người tiền phong này, những người đầu tiên kê đơn baclofène ở Pháp, đã duyệt lại các hồ sơ bệnh án của 181 bệnh nhân, những người tiêu thụ rượu nặng được điều trị với baclofène với liều cao để xem họ đã như thế nào một năm sau khi bắt đầu điều trị. Kết quả : đối với 132 bệnh nhân mà một sự đánh giá đã có thể thực hiện, 75 bệnh nhân đã trở thành kiêng khem (abstinent) và 28 là những người tiêu thụ trung bình. “ Nếu ta cho là thất bại những bệnh nhân đã không đến khám nữa, thì thuốc có hiệu quả 50% các trường hợp ”, BS Laurent Rigal (thầy thuốc đa khoa, đồng tác giả của công trình nghiên cứu ) đã xác nhận như vậy. Những tác đúng phụ, nhất là một tình trạng ngủ gà, đã xuất hiện, đặc biệt là vào lúc bắt đầu điều trị. Một thử nghiệm để so sánh với placebo (các bệnh nhân sẽ được điều trị hoặc bằng baclofène hoặc bằng placebo nhưng không được cho biết) sẽ được phát động vào tháng năm 2012 ở Pháp. “ Điều cơ bản là phải kiểm tra trên một quy mô lớn tác dụng của loại thuốc này, đồng thời cần biết rằng thuốc được kê đơn với những liều cao, do đó phải đánh giá mức độ dung nạp và tính hiệu quả, GS Michel Lejoyeux (chủ tịch của Société française d’alcoologie) đã giải thích như vậy. Phải phân tích baclofène có thể được đưa nào như thế nào trong một điều trị toàn bộ. ”
(LE FIGARO 21/3/2012)

8/ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NGỪNG HÚT THUỐC ?
Professeur Gilbert Lagrue
Président d’honneur de la Société française de tobaccologie

                                 THUỐC LÁ qua các con số
100 triệu người chết trên thế giới vào thế kỷ XX là do thuốc lá gây nên.
20 đến 30 năm sau khi bắt đầu nghiện thuốc lá, những biến chứng bất dau xuất hiện
15 triệu người hút thuốc ở Pháp. Mỗi năm 750.000 ngừng hút trong ít nhất một năm

Chứng nghiện thuốc lá (tabagisme) là một hành vi học được và được tăng cường bởi mờt sư phụ thuộc dược học (dépendance pharmacologique) mà nicotine là thủ phạm chính. Để ngừng hút thuốc thành công, cần 3 điều kiện.
Điều kiện thứ nhất là động cơ ngừng hút (motivation à l’arret), nghĩa là quyết định từ trong lòng của người hút và niềm tin mà ang ta có đối với sự ngừng hút này. Quyết định này có thể được đánh giá bởi một câu hỏi đơn giản : anh có mong muốn ngừng hút hay không ? Nếu câu trả lời là vâng và trong tháng đến bệnh nhân ngừng hút, thế thì động có là tốt ; nếu ngừng hút trong một thời hạn từ 1 đến 6 tháng, động cơ khi đó là thấp. Nếu còn kéo dài về sau nữa, động cơ rất thấp hoặc không có. Nếu động cơ có vẻ không đủ, vô ích xét đến một sự ngừng hút hoàn toàn tức thời ; một sự giảm dần có thể được đề nghị. Song song, phải tăng cường động cơ ngừng thuốc bằng một chiến lược rất codifié : những cuộc nói chuyện tạo động cơ (entretiens motivationnels).

CAI NGHIỆN
Thứ hai, nếu động cơ là tốt, ta gợi ý với người hút thuốc thử ngừng hút vài giờ và ghi nhận tất cả những rối loạn có thể xảy ra sau đó ; điều đó sẽ là một hướng dẫn quý báu để tiến hành điều trị. Mục tiêu là làm giảm sự xuất hiện của các triệu chứng do cai nghiện : thèm hút không cưỡng được, những ý tưởng ám ảnh về những điếu thuốc, tình trạng bực bội, những rối loạn tập trung trí tuệ, mệt..Các loại thuốc cho phép hủy bỏ hội chứng cai nghiện này (syndrome de sevrage). Trước hết, phải xác định cường độ của tình trạng phụ thuộc vật lý bằng một bảng câu hỏi Fagerstrom, những yếu tố tâm lý của việc dùng điếu thuốc, cảm giác khoái lạc, sự giảm bớt căng thẳng, sự quản lý tình trạng stress, thể trọng, lao động trí óc..và tìm kiếm nhưng rối loạn tâm lý hiện diện trong 50% các trường hợp, nếu tình trạng phụ thuộc vật lý là quan trọng. Để được như vậy, ta sử dụng , lúc nói chuyện với bệnh nhân, những autoquestionaire về tình trạng lo âu (anxiété) và trầm cảm (dépression).

“ CRAVING ”
Thứ ba phải ngăn cản sự tái phát. Một khi đã ngừng hút thuốc, khi điều trị dược học được thu giảm hay chấm dứt, những nguyên nhân hút lại có nhiều như gia tăng sự lo âu hay sụt giảm tinh thần với trạng thái trầm cảm. Sự tập trung trí tuệ bị giảm thường khó bù. Trong kinh nghiệm của chúng tôi, sự sử dụng những dẫn xuất nicotine bằng đường miệng, như gomme, pastille, inhaleur có thể cho phép làm giảm rối loạn này.
Một sự thiếu tự tin và một tình trạng tăng nhạy cảm đối với stress là những yếu tố thường được tìm thấy. Khi đó những liệu pháp hành vi và nhận thức (thérapie comportementale et cognitive : TCC) là điều trị thường hiệu quả nhất trong tình huống này. Một sự lên cân cũng thường gặp. Sự xuất hiện trạng thái “craving” nghĩa là một nhu cầu đột ngột và bức thiết hút lại một điếu thuốc, là yếu tố tái phát quan trọng nhất và dai dẳng nhất. Thật vậy, điếu thuốc được hút trong những tình huống rất đa dạng, buổi họp thân mật, sau khi uống cà phê, sau khi uống một ly rượu vang hay sau một ly rượu khai vị, nhân một trường hợp stress hay một tình huống khó đương đầu… Mỗi khi cùng những tình trạng này tái diễn, “ craving ” có thể sẽ xuất hiện, do một phản xạ có điều kiện, được ghi sâu vào trong những circuit de la mémoire. Điều đó sẽ có thể xảy ra nhiều năm, thậm chí nhiều tháng sau khi ngừng tiêu thụ.

NGỪNG HÚT THÀNH HAI THÌ.
Những người trước đây đã hút thuốc phải học làm chủ tình huống này bằng những chiến lược hành vi (stratégie comportementale) : thở sâu và bằng bụng, uống một ly nước lớn, thay đổi môi trường. Trong thời kỳ sau khi ngừng hút, phải khuyên người cai hút luôn luôn có sẵn bên mình một thưốc uống thay thế để dùng ngay khi “ craving ”.
Khí động cơ bỏ thuốc không đủ, một sự giảm nhanh các nguy cơ có thể thực hiện bằng cách thay thế dần dần những điếu thuốc bằng các chất thay thế nicotine với những liều bù (à doses compensatrice). Trong thời kỳ này, trong vài tháng, động có thật sự xuất hiện và có thể tiến hành sự ngừng hút : dó là sự ngừng hút hai thì (l’arrêt en deux temps). Việc không có động cơ đôi khi liên kết với một “ tình trạng trầm cảm mãn tính ” cần phải điều trị.
Như thế, không có điều trị duy nhất, không có thuốc bá bệnh đối với việc ngừng thuốc lá. Vài người hút thuốc có động cơ tốt, không bị những rối loạn tâm lý liên kết và với một sự lệ thuộc vật lý (dépendance physique) thấp, thành công ngừng hút, có hay không có sự hỗ trợ của homéopathie, châm cứu, mà những lợi ích về mặt khoa học không được chứng tỏ. Đối với tất cả những người khác, một điều trị đặc hiệu thích ứng với những đặc điểm của mỗi người hút thuốc, với một sự hỗ trợ tâm lý kéo dài, được bổ sung nếu cần bởi một liệu pháp hành vi-nhận thức (TCC : thérapie comportemento-cognitif), cần thiết cho một sự thành công lâu bền.
(LE FIGARO 18/10/2010)

9/ NHỮNG LOẠI THUỐC NÀO GIÚP CAI THUỐC LÁ ?
Docteur Gérard Pfeiffer
CHR Bon-Secours (Metz)
Membre de la Société française de tobaccologie

Trước khi bắt đầu điều trị cai nghiện, phải thu thập bệnh sử của chứng nghiện thuốc lá, đánh giá động cơ ngừng hút. Một khi đã quyết định, phải đánh giá tình trạng phụ thuộc nicotine bằng một trắc nghiệm Fagerstrom, đánh giá những thói quen hút thuốc (thí dụ với trắc nghiệm Horn), đánh giá tình trạng lo âu-trầm cảm (anxiété-dépression), đánh giá tình hình dinh dưỡng (nguy cơ lên cân khi ngừng hút).
Trong số những thuốc đứng hàng đầu, ta ghi nhận : những chất thay thế nicotine, bupropion (Zyban), varenicline (Champix). Sử dụng những thuốc thay thế nicotine được khuyến nghị ở những bệnh nhân phụ thuộc. Ta đề nghị hoặc là timbre transdermique, như điều trị nền liên tục, hoặc những traitement nicotinique de secours, cho phép bệnh nhân tự chuẩn độ nồng độ nicotine trong máu và đối phó với những đợt cần hút cấp tính. Nhiều loại chất thay thế (substitut) có trên thị trường : gomme để nhai, viên thuốc để tan dưới lưỡi (comprimé sublingual), viên thuốc để mút (comprimé à sucer), máy hít nicotine (inhaleur de nicotine) phóng thích nicotine trong miệng.

PHỐI HỢP CÁC CHẤT THAY THẾ.
Để tránh hội chứng cai nghiện, ta cung cấp cho người hút thuốc một lượng nicotine gần bằng lượng mà bệnh nhân hít từ điếu thuốc, đồng thời nhận được một sự tăng cường dương tính (thức tỉnh, giảm stress) ; liều lượng được tính tùy theo kết quả của trắc nghiệm Fagerstrom và nồng độ được đo của monoxyde de carbone được thở ra (phản ánh cường độ của nhiễm độc thuốc lá trong 12 giờ trước đó).
Những chất thay thế nocotine có thể được phối hợp. Phải biết những triệu chứng quá liều nicotine (nôn, tim nhịp nhanh, ỉa chảy) và những triệu chứng dưới liều của nicotine (thèm hút bức thiết, cáu kỉnh, grignotage). Thời gian cho thay đổi từ 6 tuần đến 6 tháng. Các chất thay thế nicotine có thể bán ở hiệu thuốc không cần toa bác sĩ.
Từ lâu được sử dụng ở Hoa Kỳ, Zyban (bupropion) nguyên thủy là một thuốc chống trầm cảm, hiệu quả khi cai thuốc lá. Những công trình nghiên cứu về tính hiệu quả cho thấy rằng tỷ lệ thành công của Zyban ngay cả cao hơn tỷ lệ thành công của các chất thay thế nicotine loại patch. Nó có nhiều tác dụng phụ làm giới hạn việc kê đơn. Nhưng không có lợi ích khi phối hợp các chất thay thế nicotine với bupropion.

CÁC THỤ THẾ NÃO BỘ.
Varenicline (Champix) có một cách tác dụng chưa từng có. Nó tác động trực tiếp lên cùng những thụ thể não bộ của nicotine và như thế tỏ ra có khả năng ức chế cảm giác khoái lạc được mô tả bởi những người hút sau khi hút một điếu thuốc, do đó làm gia tăng tỷ lệ kiêng khem thuốc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả của Varenicline so với bupropion và placebo. Được khuyến nghị sau khi dùng những chất thay thế nicotine thất bại, varenicline được đề nghị nói chung trong một thời gian 12 tuần điều trị, cần toa bác sĩ. Mức độ dung nạp toàn bộ là thỏa mãn, mặc dầu thường gây nôn và đau đầu thông thường. Cần thận trọng trong trường hợp rối loạn khí chất hay có những tiền sử bệnh tâm thần (nhưng nguy cơ có những ý nghĩ tự tử).
Trong số những thuốc được lựa chọn thứ hai, ta nhận thấy clonidine, với nguy cơ ngủ gà quan trọng. Các thuốc chống trâm cấm không được khuyến nghị đối với cai nghiện, nhưng chúng có thể được sử dụng trong những trạng thái lo âu hay trầm cảm thứ phát sự ngừng hút. Các thuốc giải ưu (anxiolytique) ít có tác dụng, vậy không được khuyến nghị để cai thuốc, cũng như châm cứu, homéopathie, mésothérapie, hypnose, auriculothérapie hay laser. Tính chất nguy hiểm của điếu thuốc điện tử (cigarette électronique) đã được ghi nhận bởi giới hữu trách y tế. Song song với liệu pháp dược học, một hỗ trợ tâm lý và quan hệ (aide psychologique et relationnelle) rất được khuyến nghị.

VACCIN VÀ CÁC THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH.
Nhiều điều trị đang được phát triển, phần lớn đang được thử nghiệm lâm sàng. Thí dụ các thuốc chống động kinh đang được trắc nghiệm. Cũng như các “ vaccin ” chống nicotine ngăn cản nicotine lưu thông trong máu gắn vào những thụ thể nicotine ở những tế bào thần kinh của não bộ. Những công trình nghiên cứu di truyền cũng đang được tiền hành, bởi vì có lẽ cũng có một sự kiểm soát di truyền đáp ứng đối với các thuốc dùng cho cai thuốc.
(LE FIGARO 18/10/2010)

10/ KHÍ PHÊ THỦNG : NHỮNG KẾT QUẢ GÂY ẤN TƯỢNG CỦA MỘT ĐIỀU TRỊ MỚI.
GS Charles-Hugo Marquette, chef de service de pneumologie (CHU Nice) giải thích phương pháp vi xâm nhập rất hứa hẹn đối với những bệnh nhân đề kháng với các điều trị cổ điển.
Hỏi : Khí phế thủng biến đổi các chức năng hô hấp bằng cách nào ?
GS Charles-Hugo Marquette. Khí phế thủng là một thành phần của bệnh phế quản phổi tắc mãn tính (BPCO : broncho-pneumopathie chronique obstructive). Đó là một bệnh phổi mãn tính ảnh hưởng lên 5 đến 10% dân số. Dưới 1/3 các bệnh nhân biết rằng họ bị bệnh, bởi vì họ thường coi thường những triệu chứng đầu tiên, mà họ gán cho là do thuốc lá. BPCO được đặc trưng bởi một sự tắc của các phế quản. Trong khí phế thủng (emphysème) ngoài ra ta còn có một tình trạng phá hủy phổi, làm mất tính đàn hồi tự nhiên của nó.
Hỏi : Những triệu chứng nào dẫn đến chẩn đoán khí phế thủng ?
GS Charles-Hugo Marquette. Trước hết đó là khó thở, xảy ra khi gắng sức nhiều rồi, với thời gian, trong khi thực hiện những gắng sức thông thường hơn (thí dụ khi bước) ; ở một giai đoạn còn tiến triển hơn, bệnh nhân bị trở ngại trong cuộc sống hàng ngày : để mặc áo quần, để làm toilette… điều này tạo nên một phế tật quan trọng. Ở một giai đoạn tối hậu, suy hô hấp nặng đến độ cần một sự cung cấp thường trực oxy bằng một bình oxy. Sau cùng, khoảng vài chục bệnh nhân hàng năm cần phải ghép phổi, biện pháp cuối cùng đối với những trường hợp cực nặng.
Hỏi : Cho đến hiện nay, những điều trị chuẩn là gì ?
GS Charles-Hugo Marquette. Ở 2/3 các bệnh nhân, bằng những phương thức đơn giản ta thành công cải thiện một cách đúng đắn ít hay nhiều chất lượng cuộc sống. Ta làm giảm khó thở, nhưng ta không sửa chữa mô phổi bị biến đổi. Biện pháp đầu tiên dĩ nhiên là ngừng hút thuốc. Ta phối hợp với biện pháp này những thuốc hít giãn phế quản để mở lại các phế quản. Ta cũng khuyến nghị những buổi phục hồi chức năng hô hấp nhiều lần mỗi tuần với một kinésithérapeute chuyên môn, trong 4 đến 6 tuần (để học phục hồi chức năng các cơ).
Hỏi : Đối với 1/3 các bệnh nhân bị khí phế thủng rất nặng, đề kháng với những điều trị quy ước này, những phương thức điều trị mới nhất là gì ?
GS Charles-Hugo Marquette. Những phương thức này nhằm làm giảm thể tích của các vùng phổi bị bệnh để khí thở vào được tái phân bố trong những vùng lành mạnh hơn. Để được như thế có những phương cách khác nhau được thực hiện với một bronchoscope, một ống soi mềm cho phép di chuyển bên trong các phế quản.
Hỏi : Hướng điều trị hứa hẹn nhất là gì ?
GS Charles-Hugo Marquette. Đó là technique des spirales (kỹ thuật các vòng xoắn ốc), được thực hiện với những ống thông được thu nhỏ (sonde miniaturisée). Dưới gây mê tong quát, ta đặt các vòng xoắn ốc (spirales) vào vị trí bên trong các khí quản. Những vòng xoắn ốc này tác dụng như những lò xo nhỏ, chúng giám giữ những phần phổi bị bệnh và thu giảm thể tích của chúng. Can thiệp được thực hiện dưới sự hướng dẫn của vidéo và soi quang tuyến. Vậy có hai màn ảnh cho phép thực hiện hai kiểm tra : trên một màn ảnh ta thấy phần bên trong của khí quản và trên màn ảnh thứ hai ta thấy người thầy thuốc đang điều khiển sự triển khai của các vòng xoắn ốc. Một trong những ưu điểm của phương pháp mới nhất này là : vừa làm giảm thể tích vùng bị khí phế thủng, đồng thời ta tái lập một phần của tính đàn hồi của phổi.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu nào đã cho phép kết luận về một tính hiệu quả lớn hơn của kỹ thuật cải tiến này ?
GS Charles-Hugo Marquette. Trên nhiều trăm bệnh nhân được điều trị ở châu Âu, gần 70% đã có một sự cải thiện gây ấn tượng, với hai năm nhìn lại. Lợi thu đuợc về mất chức năng hô hấp và nắng lực lúc gắng sức đã tỏ ra rất cao so với lợi thu được với điều trị chuẩn. Bất hạnh thay ta chỉ có thể đề nghị phương pháp này cho những bệnh nhân với khí phế thủng chỉ ảnh hưởng vài vùng của phổi, nghĩa là ở họ vẫn còn vài vùng không bị phá hủy.
Hỏi : Giai đoạn sắp đến sẽ là gì ?
GS Charles-Hugo Marquette. Một công trình nghiên cứu rộng lớn nhiều trung tâm đang được tiến hành ở Anh. Một công trình khác sẽ được bắt đầu ở Hoa kỳ vào năm 2013. Ở Pháp, thử nghiệm quy mô lớn của chúng toi sẽ được bắt đầu trong năm này ngay khi chúng tôi nhận được sự đồng ý của giới hữu trách y tế. Để thực hiện công trình này chúng tôi đang còn trong giai đoạn tuyển mộ những người tình nguyện.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(25/4/2012)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s