Thời sự y học số 265 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ BỆNH BÉO PHÌ : NHẮM ĐÍCH TỐT HƠN NHỮNG TRẺ CÓ NGUY CƠ.
Sổ sức khỏe phải là trọng điểm của một chiến dịch điều tra phát hiện sớm.

IMC (indice de masse corporelle) = Trọng lượng (kg)/ bình phương Kích thước (m).
     Xếp loại :  < 18,5             Gầy (Maigreur)
                      18,5 – 24,9      Bình thường
                      25 – 30             Tăng thể trọng (Surpoids)
                      > 30                   Béo phì (Obésité)

Những trẻ từ 5 đến 17 tuổi trong tình trạng béo phì hay tăng thể trọng (%)
           – Hy Lạp                    37%
           – Hoa Kỳ                   35,9%
           –  Ý                             30,9%
           – Anh                         26,6%
           – Tây Ban Nha        22,9%
           – Thụy Điển             19,5%
           – Ấn Độ                     18,3%
           – Pháp                       17,8%
           – Nhật                        14,7%
           – Thổ                         10,3%
           – Trung Quốc            4,5%

SURPOIDS. Những chiến dịch chống và phòng ngừa, được thiết lập bởi nhiều nước đứng trước trận dịch bệnh béo phì trẻ em (obésité infantile) hiện nay phải chăng là có kết quả ?. Ở Pháp, những con số mới nhất dường như chỉ rõ một sự đình trệ : theo công trình nghiên cứu quốc gia nutrition santé mới nhất của INVS, tỷ lệ các trẻ em từ 3 đến 17 tuổi tăng thể trọng hay béo phì được duy trì quanh 18% giữa năm 2000 và 2006. Phải luôn luôn thận trọng trước sự ổn định này, BS Myriam Dabbas-Tyan, thầy thuốc nhi khoa thuộc bệnh viện Necker-Enfants malades (Paris) đã xác nhận như vậy. Con số trung bình này không phản ảnh những khác nhau giữa các môi trường xã hội thuận lợi nhất và ít thuận lợi nhất. Vả lại những trường hợp béo phì nặng (obésité grave) đang gia tăng, càng ngày càng xảy ra sớm.
SỰ NHÀN RỔI KHÔNG HOẠT ĐỘNG.

Sự nhàn rổi không hoạt động qua các con số

40,7% các cháu trai ít nhất ngồi 3 giờ mỗi ngày trước TV
38,1% các cháu gái ngồi ít nhất 3 giờ mỗi ngày trước TV
1% những trường hợp béo phì là những trường hợp nặng cần thăm khám ở bệnh viện.

Mục tiêu là làm giảm những nguy cơ về lâu về dài gây nên bởi chứng béo phì (các bệnh tim mạch, bệnh đái đường…) và phí tổn của chúng đối với hệ y tế. Nhiều cố gắng được tập trung vào chứng béo phì trẻ em, một can thiệp nhắm đích tuy nhiên nêu lên nhiều vấn đề, và đôi khi những cuộc tranh luận náo động, vào những nguyên nhân của chứng béo phì của trẻ em, vào những hậu quả của nó và những phương tiện để chống lại. Phần lớn các công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng chứng béo phì trẻ em được liên kết với một sự bất quân bình dinh dưỡng (déséquilibre nutritionnel) cũng như một tình trạng nhàn rổi không hoạt động (sédentarité) của các trẻ em, chủ yếu được đo lường bởi thời gian tiêu khiển trước một màn ảnh.
Gia đình, và nhất là các bà mẹ, ở tâm điểm của cơn gió lốc của các nguyên nhân của chứng béo phì, mặc dầu mối liên hệ nhân quả khó chứng minh được. Tỷ lệ chứng béo phì trẻ em cao hơn một cách đáng kể trong những môi trường xã hội bất lợi nhất, đặc biệt liên quan với trình độ học vấn của bà mẹ. Thế mà một công trình nghiên cứu của đại học Grenade, được công bố tháng này, cho thấy rằng sự quân bình dinh dưỡng của các trẻ em là tốt hơn khi chúng dùng bữa ăn ở nhà.
Những mâu thuẫn như vậy cũng được phản ảnh trong cách điều trị các trẻ em tăng thể trọng. Phần lớn các khoa chuyên môn đề nghị một can thiệp nhiều chuyên khoa (intervention multidisciplinaire) để làm dễ một chế độ ăn uống tốt hơn và một hoạt động vật lý thường hơn. GS Patrick Tounian, thầy thuốc nhi khoa ở bệnh viện Trousseau (Paris) nhấn mạnh sự kiện rằng những trẻ béo phì không phải là nạn nhân của một sự giáo dục xấu cũng không phải của một sự thiếu ý chí, mà là bản chất của chúng : “ Một bộ phận dân chúng có tố bẩm bị béo phì và suốt đời sẽ phải đấu tranh chống lại não bộ đã lập chương trình khiến họ ăn nhiều hơn. ” Những người khác, ngay cả trải qua những thời kỳ lên cân, tự điều hòa lấy.
Thầy thuốc nhi khoa dựa vào điều được cảm nhận của đứa trẻ và gia đình nó, nhấn mạnh rằng chứng béo phì trong thời kỳ thơ ấu, không phải là một vấn đề sức khỏe mà là một vấn đề tâm lý xã hội. “ Nếu một đứa trẻ đến trong khoa của tôi trong tình trạng béo phì và đau khổ và nếu nó rời khoa cũng béo phì nhưng sung sướng, tôi xem như đó là một sự thành công ”, ông đã đánh giá như vậy. Theo ông, những biện pháp hiện nay không được quá nhấn mạnh vào chứng béo phì, vì sẽ có nguy cơ làm tăng cường sự phân biệt đôi khi hung bạo và cảm giác tội lỗi của các trẻ và gia đình của chúng. “ Không một công trình nghiên cứu nào cho thấy rằng một can thiệp sớm lên chứng béo phì quyết định tương lai thể trọng của một đứa trẻ ở tuổi trưởng thành ”, ông đã nói như vậy.
THEO DÕI ĐƯỜNG CONG TĂNG TRƯỞNG
Vậy có phải nhắm tốt hơn vào những trẻ mà tình trạng gia tăng thể trọng có thể có những hậu quả lên sức khỏe tương lai của chúng ? Những khuyến nghị của HAS (Haute Autorité de santé), được cập nhật năm 2011, đã nhấn mạnh vào lợi ích nhắm tốt hơn vào những trẻ có nguy cơ nhờ một sự theo dõi chăm chú hơn những đường cong tăng trưởng (courbes de croissance). Sự xuất hiện trở lại chứng béo phì sớm (obésité précoce), trước 6 tuổi, là một chỉ dấu trung thực của một nguy cơ béo phì trong tương lai.
“ Sổ sức khỏe là phương tiện tốt nhất để điều tra phát hiện sớm, với điều kiện chú ý ghi trọng lượng mỗi lần khám, BS Dabbas-Tyan đã nhấn mạnh như vậy. Không nên chỉ xét đến chỉ số khối lượng cơ thể (IMC : indice de masse corporelle) mà phải theo dõi kỹ những đường cong tăng trưởng để phát hiện rất sớm những thay đổi trong tiến triển của chúng ”. Một công trình nghiên cứu của Anh, được công bố mùa hè vừa rồi, cho thấy các thầy thuốc đa khoa, cảm thấy bất lực khi đứng trước bệnh lý này, rất ngập ngừng khi nêu lên chứng béo phì của một đứa bé vào những lần thăm khám với bố mẹ. Về phần mình, bố mẹ từ chối chấp nhận một chẩn đoán phân biệt như vậy đối với con mình. Tuy nhiên một can thiệp sớm và nhẹ nhàng, dựa trên sổ theo dõi y tế có thể tránh cho các trẻ có nguy cơ sự đau khổ xã hội (souffrance sociale), vẫn là hậu quả có hại nhất của chứng béo phì nhi đồng.
(LE FIGARO 26/3/2012)

2/ BỆNH BÉO PHÌ TRẺ EM : TÁI TỔ CHỨC SỰ QUÂN BÌNH ĐỜI SỐNG TRONG GIA ĐÌNH
“ Ta không còn buộc một đứa trẻ phải theo régime. Không có gì bị cấm chỉ, chỉ cần phải thiết đặt một chế độ ăn uống thích ứng theo tuổi ”, BS Myriam Dabbas-Tyran, thầy thuốc nhi khoa thuộc Hôpital Necker-Enfants malades (Paris), đã nhắc lại như vậy. Haute Autorité de santé cũng chỉ rõ trong các khuyến nghị rằng những chế độ ăn uống nhằm làm ốm (régime à visée amaigrissante) không có hiệu quả và ngay cả có hại về lâu về dài.
Mục tiêu nhắm đến không phải là làm mất trọng lượng, mà là sự ổn định của đường cong thể trọng (courbe de poids) bằng một sự tái tổ chức chế độ ăn uống và những hoạt động của đứa bé trong khung cảnh gia đình.
BILAN TRONG BA NGÀY
Việc điều trị này đòi hỏi ta phải dành thời gian để đào tạo và thông tin đứa trẻ cùng gia đình nó về những biện pháp cần phải thực hiện, để kèm cặp đứa bé béo phì trong những cố gắng của nó. Vài khoa bệnh viện, nhất là những mạng phòng ngừa và điều trị bệnh béo phì nhi đồng (REPPOP : réseau de prévention et de prise en charge de l’obésité pédiatrique) đã chuyên môn hóa để tiếp nhận các đứa trẻ và bao quanh chúng bằng một kíp nhiều chuyên khoa (équipe multidisciplinaire), sẽ hỗ trợ chúng về lâu về dài.
Trung bình, các khoa chuyên môn đạt được một sự ổn định hay một sự giảm trọng lượng đối với một đứa bé trên hai sau 3 năm, một con số phản ảnh tỷ lệ lớn các trẻ từ chối trước khi đã đạt được những mục tiêu được ấn định.
“ Trong khoa của chúng tôi, sự điều trị bắt đầu với một bilan được thực hiện trong 3 ngày để hiểu rõ hơn đứa trẻ hoạt động như thế nào mỗi ngày, trong khung cảnh gia đình ”, BS Béatrice Jouret, thầy thuốc nhi đồng nội tiết thuộc CHU de Toulouse đã chỉ rõ như vậy.
Phần lớn các trẻ đến tận khoa của mình sau khi được gia đình gọi, bối rối trước một chứng béo phì đã nghiêm trọng và thường sau những thất bại liên tiếp do những chế độ ăn uống hạn chế (régime restrictif).
UNE CHARTE DES PARENTS.
Sự can dự của gia đình là thiết yếu cho sự thành công và, ngay ngày đầu, một groupe de parole quy tụ các bố mẹ trước nhà tâm lý học (psychologue)của kíp.
Còn các trẻ, lúc nói chuyện từng trẻ một, chúng thấy, mỗi người điều trị của kíp : nhà tâm lý học, nhà giáo dục y tế thể thao (éducateur médico-sportif), thầy thuốc nhi khoa và thầy thuốc chuyên khoa ăn uống (diététicienne). Các atelier được tổ chức, có hay không sự tham dự của bố mẹ, để hiểu chứng béo phì là gì, sự quân bình của chế độ ăn uống, và mọi người có thể đánh giá khả năng của riêng mình.
Sau 3 ngày, một loạt các mục tiêu được ấn định đối với mỗi trẻ cũng như đối với bố mẹ của nó, ra đi với một charte des parents. “ Cái khó nhất là tái tổ chức gia đình : mỗi người đều phải ăn cùng một thứ, không nên cô lập đứa trẻ béo phì ”, BS Jouret đã nhấn mạnh như vậy.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA RESEAU
Sau đó, mỗi 3 tháng, đứa trẻ đến khám thầy thuốc gia đình. Ông ta theo dõi, cùng với đứa trẻ, sự tiến bộ so với các mục tiêu được đề ra. Sự can dự của người thầy thuốc trong việc giáo dục điều trị và quá trình theo dõi những đứa bé béo phì là một yếu tố quan trọng của thành công, các réseau có thể hướng gia đình về các thầy thuốc tham gia trong réseau.
Càng ngày càng nhiều thầy thuốc lựa chọn tự đào tạo ở các réseau, dầu họ luôn luôn công nhận là thiếu thời gian để được hiệu quả như họ mong muốn.
(LE FIGARO 26/3/2012)

3/ BỆNH BÉO PHÌ TRẺ EM NẶNG : VẪN PHẢI TÌM NHỮNG GIẢI PHÁP.
“ Phần lớn các trẻ em có những bệnh béo phì cấp cứu (obésités urgentes) sống trong một bối cảnh trong đó gia đình không là một điểm tựa. Vậy việc xử trí phải có tính chất xã hội trước khi y khoa có thể can thiệp ”, BS Béatrice Jouret, thầy thuốc nhi nội tiết (pédiatre endocrinologue) thuộc CHU de Toulouse và là điều phối viên của Reopp Midi-Pyrénées, đã chỉ rõ như vậy. Phải thành lập những relais, để giúp gia đình đi chợ đồng thời tính đến khả năng thanh toán hay để các trẻ khác có thể được giữ vào lúc lấy hẹn khám bệnh.
Các thầy thuốc thành phố cảm thấy hoàn toàn bất lực khi đứng trước những chứng béo phì trầm trọng (obésité grave) này, liên hệ đến 1% những trẻ béo phì, nhưng họ không biết hướng những trẻ này về đâu. Mỗi thành phố mức trung bình cần có một consultation hospitalière với một kíp được đào tạo để điều trị bệnh béo phì, GS Pierre Bougnères, trưởng khoa nội tiết đái đường nhi đồng thuộc bệnh viện Bicetre (Kremlin-Bicetre) đã nhấn mạnh như vậy. Ngoài ra đối với những trường hợp béo phì nam giới, ông bảo vệ việc sử dụng sớm ngoại khoa đối với những trẻ, thường nhất đã “ thử tất cả ” và thất vọng.
“ LAISSES-POUR-COMPTE ”
“ Tình hình ở Pháp, đối với những trường hợp thái quá này, thật đáng xấu hổ. Phương thức được khuyến nghị, dựa trên những lời khuyên, hoàn toàn không có hiệu quả đối với những trẻ này, ông nhấn mạnh như vậy. Sau 13 hay 14 tuổi, khi một đứa trẻ bị béo phì một cách ghê gớm, lên 15 hay 20 cân mỗi năm, đến khám tôi, tôi bàn với nó, nếu sự lên cân vẫn tiếp tục trong năm đến, khả năng của một can thiệp ngoại khoa. ”
Ở một lứa tuổi như thế, các thầy thuốc ngoại khoa chỉ giúp đặt một vòng anneau (mà sau đó ta có thể lấy đi ) lên phần trên của dạ dày. Vòng này sẽ khiến bệnh nhân giảm một cách ngẫu nhiên lượng thức ăn được tiêu thụ. “ Nhưng tôi hiếm khi khuyên phẫu thuật bởi vì những bệnh nhân liên hệ thường không có phương tiện để trả. Chỉ có vòng là có thể được xét đến, technique de dérivation có một nguy cơ quá quan trọng nếu ta không chắc chắn rằng đứa trẻ sẽ dùng đều đặn vitamine, cũng tốn kém, mà can thiệp này sẽ cần đến ”, BS Jouret đã xác nhận như vậy.
Chirurgie bariatrique hiện nay chỉ được cho phép ở những người trưởng thành bị chứng béo phì thái quá. Ở trẻ em, kỹ thuật này chỉ được thực hiệp trong trường hợp rất ngoại lệ và nhiều chuyên viên vẫn rất ngại ngùng thực hiện một kỹ thuật chưa được chấp nhận bởi hệ y tế. GS Bougnères, khuyên 50 phẫu thuật mỗi năm nhưng muốn có thể đề nghị 300, nhấn mạnh lợi ích của một phương pháp an toàn, mà từ nay có một thời gian nhìn lại quan trọng, trên nhiều bệnh nhân ở những nước khác. “ Khi những đứa trẻ này mất 40kg, ta mở cho chúng một chân trời hoàn toàn mới mà chúng không còn được mạn phép nghĩ đến nữa và có thể xác định người trưởng thành mà chúng sẽ là ”, ông đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 26/3/2012)

4/ NÃO TỔNG HỢP THÀNH HÌNH.
Các nhà nghiên cứu chẳng bao lâu nữa sẽ cho tạo ra một não bộ trong phòng thí nghiệm ? Hiện chúng ta chưa đến giai đoạn đó nhưng các công trình của họ nhằm tái tạo vỏ não (cortex cérébral) in vitro đã vượt qua một giai đoạn mới. Các nhà nghiên cứu của đại học Cambridge (Vương Quốc Anh) xác nhận trong tạp chí Nature neuroscience đã thành công tạo lại một cách chính xác tân vỏ não (néocortex), lớp màng mỏng 2mm bao phủ não bộ. Ở người, phần này của vỏ não cho phép hội nhập tất cả cảm giác và điều hòa các hành động. Nó được cấu tạo bởi 6 tầng tế bào thần kinh đặc hiệu, tất cả được tái tạo một cách chính xác trong thí nghiệm.
Để thực hiện kỳ công này, các nhà nghiên cứu đã cấy những tế bào gốc, có khả năng biệt hóa thành tất cả mọi loại tế bào. Họ đã thành công làm xuất hiện một loại những tế bào thần kinh quan trọng đối với 80% các neurone : những tế bào hoạt hóa (cellules activatrices). Rồi, bằng cách biến đổi môi trường cấy, họ còn thu được những tế bào thần kinh khác được gọi là những astrocyte. Các neurone thu được như thế đều thành thục và có khả năng thiết lập những nối kết giữa chúng với nhau. Trái lại, chúng vẫn khu trú ở các bề mặt. Vì vậy giai đoạn kế tiếp sẽ là tái tạo kết cấu 3 chiều (architecture tridimensionnelle) bằng cách nối kết các tầng lại với nhau. Các nhà nghiên cứu cũng sẽ tìm được cách để thêm vào 20% những tế bào thiếu (những neurone inhibiteur) nhằm làm tân vỏ não hoạt động tròn chức năng. Bằng cách tái tạo sự cấu tạo của các tế bào vỏ não, họ hy vọng cũng hiểu được những bệnh lý trong đó cấu tạo này diễn ra. Và nếu các nhà khoa học nhiên hậu cho phát sinh các neurone theo đơn đặt hàng, thế thì tại sao không tính đến ghép neurone ở những người bị bệnh Parkinson ?
(SCIENCES ET AVENIR 4/2012)

5/ BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?
Professeur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine

– 15 phút hoạt động vật lý mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công trình nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
– 150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề phòng ngừa những nguy cơ tim mạch.
– Tình trạng bất hoạt vật lý, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo phì, cao huyết áp, những bất quân bình lipide và bệnh đái đường.

Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền hình đã trở thành một chỉ dấu cổ điển của tình trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lý ở mức trung bình có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lý. Tình trạng bất hoạt vật lý (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xã hội học và tâm lý học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.
Tình trạng không hoạt động vật lý, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo phì, cao huyết áp, những tình trạng bất quân bình lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lý cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).
SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.
Một hoạt động vật lý đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lý làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm tình trạng tăng thể trọng, bệnh béo phì và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.
Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công trình nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.
Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đã theo dõi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung bình 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lý của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung bình như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.
Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lý nhẹ (đi bộ bình thường) đã giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu não giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.
Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lý hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lý nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.
Công trình nghiên cứu của Đài Loan đã có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một tình trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đã không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh lợi ích, trong phòng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công trình nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lý hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực.
(LE FIGARO 2/4/2012)

6/ NGỪA THAI NAM GIỚI BẰNG SIÊU ÂM.
Các nhà nghiên cứu của đại học North Carolina đã chứng minh rằng sự phát các siêu âm ở các tinh hoàn làm giảm hẳn sự sản xuất các tinh trùng. Điều này sẽ cho phép gây ra một tình trạng vô sinh tạm thời, họ đã hy vọng như vậy. Sau hai buổi phát siêu âm (15 phút mỗi lần) ở chuột, hai tuần sau đó họ đã quan sát thấy nồng độ của các tinh trùng được chia cho 100, liên kết với những cơ may thụ tinh gần như không. Tuy nhiên, hiệu quả này, một phần là do nhiệt lượng sinh ra bởi các siêu âm ở các tinh hoàn, vẫn cần được xác nhận. Các nhà nghiên cứu đặc biệt phải xác định thời gian phát siêu âm, và đảm bảo tính vô hại của nó. Các thí nghiệm riêng rẻ, được tiến hành trong những năm 1970, gợi ý rằng phương pháp này không đau, và có thể đảo ngược được. Hướng ngừa thai này, vốn đã bị bỏ trước đây, vừa được phát động trở lại. Nếu phương pháp chứng tỏ có hiệu quả, ta có thể dự kiến một phương pháp ngừa thai nam giới không xâm nhập, không đau, và không có những tác dụng phụ liên kết với những điều trị bằng hormone. Tuy nhiên cần phải tìm liều lượng có thể được sử dụng một cách liên tiếp mà không gây nên những tác dụng phụ có hại, James Tsuturo, tác giả chính của công trình nghiên cứu đã phát biểu như vậy.
(SCIENCE ET VIE 4/2012)

7/ UNG THƯ : TÁC DỤNG CÓ LỢI CỦA ASPIRINE ĐƯỢC XÁC NHẬN
3 công trình nghiên cứu phát hiện lợi ích của aspirine trong phòng ngừa và điều trị các ung thư.
SANTE PUBLIQUE. Điều đó càng ngày càng rõ ràng : aspirine đóng một cách rõ ràng một vai trò dương tính không những trong sự phòng ngừa, mà còn trong tiến triển của ung thư. Ba công trình nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ tư trong Lancet và Lancet Oncology củng cố những kết quả đã thu được bởi nhóm nghiên cứu của GS Peter Rothwell (đại học Oxford). Ngay năm 2007, những công trình nghiên cứu của ông đã chỉ rõ rằng aspirine đưa đến một sự giảm toàn bộ nguy cơ về lâu về dài tử vong bởi ung thư. Vào năm 2010, trước hết ông đã chứng minh tác dụng có lợi này đối với ung thư đại trực tràng, rồi đối với những ung thư khác như tiền liệt tuyến, dạ dày, phổi, tụy tạng … Sự giảm toàn bộ này của tỷ lệ tử vong bởi ung thư, từ 20 đến 25% tùy theo các khối u ung thư, lại còn cao hơn (34%) khi thời gian dùng aspirine mỗi ngày vượt quá 5 năm.
Vấn đề còn phải biết là tác dụng có lợi này có được nhận thấy sau một thời gian dùng aspirine ngắn hơn hay không. Đó là điều mà Peter Rothwell và John Radcliffe (bệnh viện Oxford) đã tìm cách xác lập trong loạt các công trình nghiên cứu mới này. Để được như thế, họ đã sử dụng như trước đây nhiều thử nghiệm lâm sàng đã từng đánh giá tác dụng của aspirine, được sử dụng với liều lượng hàng ngày nhằm phòng ngừa lâu dài những tai biến mạch máu não nhờ tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu (effet anti-agrégant plaquettaire) và làm loãng máu.
Trong công trình nghiên cứu thứ nhất được công bố hôm thứ tư bởi Lancet, phân tích các hồ sơ y khoa của 77.549 bệnh nhân được đưa vào trong 51 thử nghiệm phòng ngừa tim mạch, cho thấy rằng, xét toàn bộ, aspirine làm giảm 15% nguy cơ tử vong bởi ung thư ở những bệnh nhân được điều trị so với những người chứng. Nguy cơ này ngay cả giảm 37% nếu ta chỉ xét đến 5 năm đầu tiên điều trị. Ngoài ra, trong 6 thử nghiệm phòng ngừa nguyên phát những tai biến tim mạch bằng những liều thấp aspirine mỗi ngày (hoặc 35.535 người tham dự), sự xuất hiện một ung thư được làm giảm khoảng ¼ suốt trong 3 năm đầu điều trị, với kết quả gần như y hệt ở đàn ông (23%) và phụ nữ (25%). Nguy cơ xuất huyết do sử dụng aspirine có khuynh hướng thu giảm với thời gian điều trị.
Công trình nghiên cứu thứ hai hướng về sự xuất hiện các di căn sau khi ung thư được chẩn đoán, trong 5 thử nghiệm về phòng ngừa các tai biến tim mạch bởi aspirine với liều 75 mg mỗi ngày, hoặc 17.285 người. Thời gian theo dõi trung bình là 6,5 năm. Ở đây nguy cơ ung thư với di căn xa đã được thu giảm 36% trong nhóm được điều trị bởi aspirine, so sánh với nhóm chứng được điều trị với placebo. Sự thu giảm này đặc biệt (46%) đối với các adénocarcinome, những dạng thường gặp nhất của các khối u rắn (tumeur solide) (nhất là đại tràng, phổi, tiền liệt tuyến…), thấp hơn đối với những dạng ung thư khác. Đối với các adénocarcinome này, nguy cơ được giảm 31% nếu đó là chẩn đoán ung thư di căn tức thời, và 55% khi đó là những di căn xuất hiện sau chẩn đoán. Hiệu quả này độc lập với tuổi tác và giới tính.
Công trình nghiên cứu thứ ba, được công bố bởi Lancet Oncology, công trình này cũng quan tâm đến tác dụng phòng ngừa của aspirine lên các di căn, nhưng lần này so sánh những kết quả của các thử nghiệm với những kết quả được tiến hành theo những phương pháp học khác. Công trình này xác nhận sự làm giảm các di căn đối với nhiều loại ung thư được khảo sát (đại trực tràng, thực quản, dạ dày, vú…).
Đối với GS François Chast (Hôtel-Dieu, Paris), “ Sau khi đã lần lượt công nhận những tính chất của aspirine trong rhumatologie rồi trong cardiologie, ta sẽ hướng về một cách không thể tránh được sự công nhận lợi ích của aspirine trong phòng ngừa các ung thư. Những kết quả trở nên có ý nghĩa bắt đầu từ năm thứ ba đối với liều cao, từ năm thứ 5 đối với những liều thấp, điều này khá nhanh, và công trình nghiên cứu xác nhận sự cần thiết của sử dụng thuốc mỗi ngày.” Nhưng cũng phải cần ghi nhớ vài hạn chế của những công trình nghiên cứu này, nhà dược học đã đánh giá như vậy : “ Các công trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ những công trình nghiên cứu về phòng ngừa tim mạch, vậy không phải được thai nghén bởi các chuyên gia về ung thư học. Ngoài ra, không nên xem thường nguy cơ xuất huyết tiêu hóa với aspirine, mặc dầu ta có thể làm giảm nó một cách đáng kể bằng cách điều trị những bệnh nhân này để trừ khử vi khuẩn Helicobacter pylori khỏi dạ dày của họ, hay bằng cách thêm vào điều trị một inhibiteur de la pompe à protons để hạn chế nguy cơ loét.” Nhưng, GS Chast đã đánh giá như vậy, “ những kết quả này có vẻ như báo hiệu mùa xuân của một phương thức mới trong ung thư học. ”
(LE FIGARO 21/3/2012)

8/ CÁC LOẠI THUỐC CHỐNG CHOLESTEROL LÀM GIẢM BỆNH TRẦM CẢM.
Một công trình nghiên cứu, vẫn còn cần được xác nhận, cho thấy rằng các statines làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
SANTE. Các statines, họ các loại thuốc nhằm làm giảm nồng độ cholestérol, đều đặn được gán cho những lợi ích khác với những lợi ích mà ta quan sát thấy trên hệ tim mạch. Một công trình nghiên cứu mới, được công bố hôm 21/2 vừa qua trong The Journal of Clinical Psychiatry đã kết luận rằng các statines cũng làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
Một nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ đã theo dõi trong 6 năm một nhóm 965 bệnh nhân có một bệnh về tim và được tuyển mộ trong nhiều bệnh viện khác nhau của Californie. Trong số những bệnh nhân này, 65% đã dùng statines để điều trị bệnh. Những thuốc này cho phép làm giảm nồng độ cholestérol xấu và cải thiện tiên lượng ở những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch. Thật vậy, đó là những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trên thế giới.
Những dữ kiện trước đây gợi ý một sự giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm khi sử dụng statines. Tuy nhiên, các kết quả của vài công trình nghiên cứu lại mâu thuẫn nhau. Do đó để biết rõ hơn, các tác giả đã đánh giá mối liên hệ giữa statines và những rối loạn khí chất (trouble de l’humeur) ở 965 bệnh nhân này theo tiến triển của thời gian. Các triệu chứng trầm cảm được đánh giá mỗi năm nhờ Patient Health Questionnaire, một bảng câu hỏi (auto-questionnaire) cho phép đo lường những triệu chứng khác nhau trong hai tuần trước đó : sự rầu rĩ, mệt, giảm lòng tự tin, những ý nghĩ tự tử…
Các tác giả đã chứng thực rằng vào lúc tuyển mộ, các bệnh nhân sử dụng statines có một điểm số trầm cảm (score de dépression) trung bình thấp hơn những người không sử dụng, và sự khác biệt này được xác nhận, thậm chí gia tăng, suốt trong thời kỳ theo dõi. Những người dùng statines càng ngày càng ít bị trầm cảm trong khi những người không sử dụng thấy nguy cơ này gia tăng. Sau 6 năm, 28% những người được điều trị bởi statines sau cùng ít nhất đã bị một đợt trầm cảm nhẹ hay trầm trọng hơn, so với 40% những người không sử dụng. Ngoài ra, ở 776 bệnh nhân không có những triệu chứng trầm cảm vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu, nguy cơ trầm cảm đã giảm 38% trong trường hợp dùng statines so với những bệnh nhân không bị trầm cảm lúc khởi đầu và không sử dụng statines. Dĩ nhiên, các tác giả đã tính đến những dị biệt về profil được quan sát giữa những bệnh nhân được điều trị hay không, đó là giới tính, chứng nghiện thuốc lá, sự hiện diện của những bệnh lý khác hay trình độ học vấn.
Đối với các tác giả, những kết quả đáng phấn khởi này ăn khớp với những kết quả của những công trình nghiên cứu quan sát trước đây. Thế mà những bệnh nhân bị những bệnh tim mạch có nguy cơ bị một bệnh trầm cảm hơn dân chúng nói chung. Nếu mối liên hệ này được xác nhận, những hậu quả có thể quan trọng trên phương diện y tế công cộng.
“ NHIỀU SAI LỆCH ”
GS Mary Whooley, đồng tác giả của các công trình nghiên cứu ở Đại học San Francisco, đánh giá rằng “ hiệu quả này có thể được giải thích bởi tác dụng của statines chống lại chứng xơ mỡ động mạch ở não bộ, dường như làm gia tăng nguy cơ bị trầm cảm ”. Tuy nhiên GS Mary nhắc lại rằng đó chỉ là những dữ kiện quan sát. “ Những dữ kiện này không cho phép xác lập một mối liên hệ nhân quả và dĩ nhiên đòi hỏi được xác nhận bởi những công trình khác. Thế mà cho đến nay, những thử nghiệm này đã không cho thấy lợi ích tâm lý của các statines ở những người sử dụng ”, bà đã công nhận như vậy.
BS Philippe Giral, thuộc khoa nội tiết của hôpital de la Pitié-Salpetrière (Paris) về phần ông tỏ ra dè dặt hơn nhiều về những kết quả này. “ Trong công trình nghiên cứu này có nhiều sai lệch mà nhiều điều chỉnh của phân tích thống kê không thể xóa bỏ, như việc thiếu tirage au sort các bệnh nhân. Trong cùng loại công trình nghiên cứu, các statine đã cho thấy rằng chúng làm giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi hay cả nguy cơ xuất hiện ung thư. Tất cả những kết quả này đã bị phủ nhận bởi những công trình nghiên cứu khác ! ” ông ta đã minh định như vậy. Những công trình nghiên cứu khác với quy mô lớn hơn là cần thiết để xác nhận hay phủ nhận những dữ kiện này.
(LE FIGARO 27/3/2012)

9/ TẾ BÀO SỬA CHỮA GAN

Những điểm chủ yếu

– Một spin-off của UCL trắc nghiệm tính hiệu quả của những tế bào gan được lấy ở một người cho và được làm tăng sinh ở phòng thí nghiệm.
– Điều đó có thể chữa lành hàng ngàn trẻ em khỏi tình trạng thiếu hụt các men gan do di truyền.
– Và giải phóng chúng khỏi những điều trị nặng nề.

Một Société của Bỉ bắt đầu một thử nghiệm đầu tiên trên thế giới.
Hépatologie. Chỉ mới cách nay 15 ngày, một bệnh nhân đầu tiên trên thế giới đã được ghép với một loại tế bào gan mới, HHALPC, với mục đích chữa lành bệnh nhân này khỏi một căn bệnh trầm trọng của gan, nguồn gốc di truyền và hiếm gặp, bệnh Crigler-Najjar. Bệnh này ngăn cản gan sản xuất một enzyme có tác dụng chữa lành chứng hoàng đảng của nhũ nhi (jaunisse du nourrison). Thật vậy, triệu chứng vàng da này trở nên thường trực. Nhưng với những hậu quả còn nặng nề hơn nhiều là màu sắc của da.
“ Đối với những bệnh nhân trẻ tuổi này, điều trị duy nhất là cho tiếp xúc với các tia tử ngoại, 10 đến 12 giờ mỗi ngày, vậy thường là về đêm. Những trẻ bị bệnh này không thể mặc pyjama cũng như không được đắp mền. Nếu không được điều trị như thế, có một nguy cơ thường trực bị những biến chứng thần kinh nghiêm trọng do độc tính thần kinh (neurotoxicité) gây nên bởi bilirubine không được khử độc bởi enzyme bị khiếm khuyết của gan. Điều trị này vô cùng nặng nề và ảnh hưởng sâu đậm lên đời sống xã hội. Giải pháp duy nhất là ghép gan. Nhưng đó là một phẫu thuật nặng nề và những người cho cơ quan (donneurs d’organes) vẫn còn quá hiếm ”, GS Etienne Sokal, trưởng khoa dạ dày ruột và gan nhi đồng thuộc UCL (Cliniques Universitaires Saint-Luc) đã giải thích như vậy.
Ở mức độ cấp tính, ghép sẽ vẫn là điều trị duy nhất được khuyến nghị. Nhưng những giải pháp khác có thể được đề nghị cho những bệnh nhân ít thương tổn hơn nhờ ghép các tế bào. Thật vậy, kíp của giáo sư Sokal đã khám phá vào năm 2005 một tế bào rất đặc biệt của gan, HHALPC. “ Thật ta đó là một cellule progénitrice. Đó không còn là những tế bào gốc (cellules souches) nữa, chúng đã được biệt hóa để trở thành những tế bào của gan. Nhưng chúng chưa trưởng thành và do đó chịu đựng tốt hơn cryopréservation ở nhiệt độ thấp mà không bị làm hỏng. Chúng cũng có thể được cấy trong phòng thí nghiệm, điều này có khả năng cho phép chữa lành hàng chục bệnh nhân từ một người cho duy nhất.”
Điều đó, đó là hy vọng hiện nay của nhóm nghiên cứu của St-Luc, đã thành lập một société, được gọi là Promethera Biosciences, để tiến hành những thử nghiệm lâm sàng cần thiết nhằm hợp thức hóa điều trị mới này. Nhưng các nhà nghiên cứu không lao mình vào những điều chưa biết. Thật vậy họ đã điều trị thành công 15 bệnh nhân bằng cách ghép cho họ những tế bào gan được gọi là hépatocyte : “ Những hépatocyte này gắn vào trong gan của người nhận và cho bệnh nhân một chức năng vốn không có lúc sinh ra đời. Cũng như một người bị bệnh hémophilie, mất nhiều máu nếu bệnh nhân không có một facteur antihémophilique nào, sẽ mất máu “ một cách thông thường ” nếu bệnh nhân có được dầu chỉ 1% của yếu tố này, chúng tôi đã chứng thực rằng chỉ cần một bệnh nhân trẻ có được 4% những tế bào gan sinh enzyme bị thiếu cũng đủ cho triệu chứng hoàng đảng và độc tính của bilirubine giảm bớt, do đó bệnh nhân có thể tiếp tục một cuộc sống gần như bình thường, với những điều trị rất được thu giảm ”, GS Sokal lấy làm phấn khởi như vậy.
Nhưng những hépatocyte “ thông thường ” có bất tiện chủ yếu là không bảo quản được dễ dàng, vì lẽ bị phá hủy bởi lạnh. Vậy phải cần một người hiến cho một bệnh nhân được điều trị. Sự sử dụng những cellule progénitrice tránh được bất tiện này.
Được cấy ở Mont-St-Gubert, ở đây những cơ sở đặc biệt vừa được chuẩn nhận bởi giới hữu trách dược phẩm châu Âu, nhưng cũng sẽ được sử dụng trên toàn thế giới. Bỉ và Anh Quốc đã đồng ý đối với những thử nghiệm lâm sàng và bệnh nhân đầu tiên đã được ghép cách nay 15 ngày. “ Trước đây chúng tôi đã trắc nghiệm phương thức ở ba bệnh nhân cấp tính, trong khung cảnh đại học, với những kết quả rất hứa hẹn vì lẽ các tế bào đã được dung nạp rất tốt, không bị thải bỏ và bởi vì chúng vẫn còn hiện diện sau nhiều tháng. Hy vọng của chúng tôi là ở một nguyên tắc đơn giản : ta ghép những tế bào chức năng trong một lá gan không có chức năng và lá gan này trở nên hoạt động nhờ ghép. Nếu điều đó có hiệu quả như ta hy vọng, các tế bào gan mới này có thể được dùng cho tất cả những bệnh chuyển hóa của gan có nguồn gốc di truyền. Có đến hơn 200 bệnh !.
(LE SOIR 29/3/2012)

10/ NHỮNG BỆNH ĐƯỜNG TIÊU HOÁ : ĐỂ CHẤN ĐOÁN TỨC THỜI.
GS Christophe Cellier, trưởng khoa gan-dạ dày-ruột và nội soi tiêu hóa thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, chủ tịch Hiệp hội nội soi tiêu hóa Phấp, giải thích những ưu điểm lớn của thiết bị endomicroscopie nhằm phát hiện mà không cần phải sinh thiết, tính chất của một bất thường.
Hỏi : Ta thường thực hiện một nội soi tiêu hóa (endoscopie digestive) như thế nào ?
GS Christophe Cellier. Thăm dò này được thực hiện bằng một endoscope, ống mềm được trang bị ở đầu mút một caméra nối với một màn ảnh vidéo. Kỹ thuật này cho phép thăm dò dạ dày, thực quản, ruột non qua đường miệng, và đại tràng qua hậu môn (soi đại tràng cổ điển). Thăm dò này phải được thực hiện một cách hệ thống sau 40 tuổi nếu ta có một thành viên trong gia đình bị một ung thư đại tràng hay nếu chính ta bị một rectocolite hémorragique.
Hỏi : Ở ruột, những giới hạn của những thủ thuật nội soi chuẩn này là gì ?
GS Christophe Cellier : Thí dụ kỹ thuật này cho phép phát hiện những ung thư, những polype, thương tổn viêm, các vết loét, các túi cùng. Khi làm nội soi, ta lấy đi một polype để tránh phát triển thành ung thư và ta gởi cho phòng xét nghiệm để phân tích dưới kính hiển vi. Thời gian chờ đợi lâu : phải kiên nhẫn khoảng 8 ngày trước khi có được kết quả và có thể cho phép tiến hành một điều trị. Đó là một thăm dò cơ bản làm giảm từ 50 đến 70% các nguy cơ thoái hóa thành ung thư. Nhưng, ta vẫn ghi nhận 40.000 trường hợp ung thư đại tràng mới mỗi năm và 17.000 tử vong mặc dầu những chiến dịch điều tra phát hiện.
Hỏi : Mục đích của phương pháp nội soi mới là gì ?
GS Christophe Cellier : Đó là một kỹ thuật endomicroscopie bổ sung nội soi tiêu hóa. Phương pháp mới này được gọi là “cofocale par minisonde ”. Phương thức nhằm đưa vào trong ống mềm cổ điển một minisonde, được đặt tiếp xúc với thương tổn và được nối với một console vidéo trên đó hình ảnh xuất hiện được phóng đại 1000 lần. Một hệ thống sẽ cho phép phân tích một cách trực tiếp những tế bào bất thường, mà không phải gởi một mẫu nghiệm đến phòng xét nghiệm để phân tích. Ta thấy nơi bị thương tổn như thể ta đang nhìn dưới kính hiển vi.
Hỏi : Thời gian nhìn lại ta có với hệ thống mới được mệnh danh “ Cellvizio” này là gì ?
GS Christophe Cellier : Nhiều công trình nghiên cứu quốc tế, được thực hiện ở thực quản, đại tràng và tụy tạng, đã chứng minh những kết quả rất tốt. Với một thời gian nhìn lại 3 năm, trên khoảng 100 bệnh nhân, ta đã có thể quan sát thấy rằng những kết quả thu được với hệ thống thăm dò mới này cũng đáng tin cậy như những hệ thống được thực hiện với những protocole cổ điển.
Hỏi : Hệ thống thăm dò mới này có cần một sự đào tạo đặc biệt cho các thầy thuốc chuyên khoa dạ dày ruột không ?
GS Christophe Cellier : Trước khi có thể áp dụng nó, các thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa phải theo một lớp đào tạo đặc biệt. Ngày nay kinh nghiệm này có thể nhận được trong các trung tâm quy chiếu ở Hoa kỳ và ở Đức. Ở Pháp, vài trung tâm sử dụng kỹ thuật này một cách đều đặn.
Hỏi : Nói tóm lại, những ưu điểm của kỹ thuật thăm dò cải tiến này là gì ?
GS Christophe Cellier : Phương thức này cho phép : 1. Phân tích các mô một cách trực tiếp, điều này cho phép tránh lấy mẫu nghiệm vô ích (vài bất thường không thoái hoa không cần phải phân tích). 2. có thể quyết định rất nhanh chiến lược điều trị tốt nhất nếu cần một điều trị. 3. Sau một cắt bỏ qua nội soi, kiểm tra xem tất cả những tế bào bất thường có đúng là đã được lấy đi. Kỹ thuật nội soi cổ điển cho phép quan sát những niêm mạc trên bề mặt nhưng không cho một thông tin vi thể nào ở nơi bệnh phát triển.
Hỏi : Hệ thống thăm dò này có thể được dự kiến đối với những bệnh khác với những bệnh của bộ máy tiêu hóa ?
GS Christophe Cellier : Cellvizio sẽ mở rộng trường thăm dò trong những lãnh vực khác : phổi, tiết niệu, chirurgie robotisée.. Đó là một plate-forme nhiều chuyên khoa.
Hỏi : Ở Pháp khi nào ta có thể hưởng được một cách thông thường tiến bộ này ?
GS Christophe Cellier : Chúng tôi đã đệ đơn yêu cầu cho những giới hữu trách cần thiết. Ta hy vọng có được trả lời chấp thuận từ nay đến hai năm nữa. Cellvizio được chấp thuận ở Hoa Kỳ bởi FDA và ở châu Âu. Sau 10 năm nghiên cứu, hệ thống thăm dò này có được hơn 150 ấn bản khoa học. Và 180 thiết bị đã được thiết đặt trên thế giới.
(PARIS MATCH 22/3 – 28/3/2012)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(7/4/2012)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s