1/ CÁC ONDE DE CHOC CHỐNG VIÊM GÂN
Nếu dây gân trong tình trạng lão hóa không tốt, những kỹ thuật mới cho phép làm tái sinh dây gân trước khi bị đứt.
ORTHOPEDIE. “ Ngoài vài bệnh toàn thân trong đó các dây gân có thể bị thương tổn, như spondylarthrite ankylosante, một bệnh viêm, những bệnh lý của các dây gân có thể được tóm tắt bởi hai trường hợp, BS Karl Chaory, thầy thuốc phục hồi chức năng và y khoa vật lý ở trung tâm y khoa thể thao Spormed de Rennes và ở Stade Rennais Football Club đã giải thích như vậy. Hoặc là dây gân quá bị tận dụng, điều này xảy ra khi luyện tập thể thao trong những điều kiện không hoàn hảo hay khi lao động lúc cùng động tác lập đi lập lại được thực hiện suốt ngày. Hoặc dây gân già đi, với những sợi bị thoái hóa và do đó được kéo dài ra ít tốt hơn. Nhưng vì khó ngăn ngừa sự lão hóa của các sợi này, người ta thường buộc phải đề nghị những kỹ thuật làm tái sinh.”
Tuy nhiên phải biết rằng những dây gân của chúng ta trở nên “ già ”. Một vài triệu chứng có thể báo động như đau mãn tính lúc thức dậy, nhưng giảm dần đi khi ta càng lúc càng vận động (débrouillage matinal).
NHỮNG KỸ THUẬT KHÁC NHAU
Khi đó ta có thể phát ra những làn sóng sốc ngoài cơ thể (ondes de choc extracorporelles) lên các sợi cơ bị bệnh, để làm tái sinh dây gân. Chỉ có điều : số các máy vẫn còn không đủ để đáp ứng các nhu cầu trên bình diện quốc gia. Đối với BS Joseph Laurans, trưởng khoa y khoa vật lý và phục hồi chức năng của Centre de rééducation et de réadaptaions fonctionnelles (CRRF) Trestel-Lannion, “ việc nhờ đến các làn sóng sốc là một kỹ thuật đã được sử dụng từ lâu để làm vỡ các sỏi thận (đó là lithotripsie extracorporelle). Điểm khác nhau duy nhất, đó là ở đây, các làn sóng không được tập trung, nhưng tỏa ra, được phát ra trực tiếp tiếp xúc với đầu phát (tête émettrice), đã tạo những vi thương tổn (microlésion) trên toàn bộ dây gân và làm dễ một sự hóa sẹo có chất lượng tốt hơn, đồng thời làm gia tăng sự phân bố mạch (vascularisation). Ta có thể nhờ đến nó để điều trị, đặc biệt trường hợp một dây gân của vai, của khuỷu tay hay của bàn chân ”. Với những tác dụng có hiệu quả : “ Thật vậy, 5 buổi với nhịp độ một lần mỗi tuần cho 80% những kết quả tốt trên một dây gân Achille thoái hóa ”, BS Chaory đã xác nhận như vậy.
Kỹ thuật khác còn mới hơn, nhưng ít được phổ biến : tiêm các yếu tố tiểu cầu (facteur plaquettaire) giàu các yếu tố tăng trưởng (facteur de croissance), có được sau khi lấy máu, làm ly tâm, thu hồi huyết thanh và tiêm trở lại cho bệnh nhân.
Ta còn có thể nhờ đến laser để có được một tác dụng liền sẹo. “ Cùng lắm, ta có thể nhờ đến ngoại khoa : technique de peignage nhằm lấy đi các sợi thoái hóa để có được một sẹo có chất lượng tốt. Vì thủ thuật cần nhập viện trong thời gian ngắn và trong hai đến ba tuần bước không được tì chân, nên đó là giải pháp triệt để nhất ”, BS Chaory đã nói tiếp như vậy.
Sau cùng, bổ sung cho tất cả những kỹ thuật này, “ balnéothérapie có vai trò của nó. Phương pháp này đặc biệt hữu ích để chống lại sự cứng khớp (enraidissement)”, BS Laurans đã nói như vậy.
Chú ý, bởi vì nếu không làm gì hết, dây gân già hay quá bị sử dụng cuối cùng có thể bị đứt. Điều này đôi khi xảy ra với các dây gân của coiffe des rotateurs (các cơ của vai). Trường hợp điển hình là trường hợp của những cọ sát liên tiếp trên xương acromion : vài nghề nghiệp có nguy cơ khi phải làm việc bằng sức, các cánh tay đưa lên trời. Tùy theo số các dây gân bị thương tổn, đau có thể kèm theo một sự thiếu sót lực (déficit de force) mức độ trung bình hay quan trọng.
COMME UN COUP DE FOUET.
Dây gân khác dễ bị đứt : dây gân Achille. Vận động viên thể thao, nhất là trong trường hợp luyện tập quá mức (surentrainement), dễ bị đứt dây gân, cũng như người tuổi 40, đột ngột quyết định chơi thể thao lại sau một thời gian dài không hoạt động, nhất là nếu anh ta không chú ý quá trình échauffement và chạy trên một nền đất quá cứng : tính toàn bộ, 11% các coureur sớm hay muộn cũng bị bệnh dây gân (tendinopathie) có thể đưa đến đứt dây gân Achille. Sự sử dụng vài loại thuốc, trong đó có các kháng sinh thuộc lớp fluoroquinolones và các loại thuốc rétinoide để chống mụn, cũng làm gia tăng nguy cơ đứt dây gân này. Sau cùng, người già mà dây gân có những vi chấn thương cũ có nguy cơ đứt dây gân Achille : trong trường hợp này, đứt gân không xảy ra lúc gắng sức, nhưng lúc làm một bước chân sai lệch : ví dụ trật một bậc cầu thang ”, BS Guillaume Grosjean, thầy thuốc ngoại chỉnh hình (chirurgie du sport, hôpital Cochin, Paris), đã xác nhận như vậy.
Tức thời dây gân đứt gây một cơn đau dữ dội nhưng thoáng qua, như thể ta nhận một phát roi quất hay một va chạm trực tiếp ở gót chân. Ngoài ra, vài người khác quay mình lại để xem điều gì đã có thể giáng vào họ hung bạo như vậy. Một tiếng craquement cũng có thể được cảm nhận. “ Nhưng bởi vì dây gân bị đứt không ngăn cản họ tiếp tục bước, nên vài người nghĩ nhầm rằng điều mà họ đã cảm thấy không có hậu quả. Thật vậy, tư thế duy nhất không thể thực hiện (đứng trên đầu các ngón của bàn chân bị thương tổn) thật ra không phải là tư thế mà ta sẽ theo đuổi mỗi ngày ”, BS Grosjean đã nhấn mạnh như vậy.
Hậu quả : ít nhất ¼ trường hợp đứt dây gân Achille không được nhận biết. Tuy vậy điều thiết yếu là phải chẩn đoán bệnh này, bởi vì đối với những người không biết là mình bị đứt dây gân, nguy cơ đau mãn tính sẽ là một hậu quả lâu dài.
(LE FIGARO 19/3/2012)
2/ ĐỐI VỚI THỂ THAO, TẤT CẢ ĐỀU Ở TRONG SỰ PHÒNG NGỪA.
“ Đối với các nạn nhân bị viêm dây gân, các giải pháp điều trị được giới hạn vào sự nghỉ ngơi và các thuốc chống viêm, BS Jacqueline Jan, thầy thuốc chuyên khoa thể thao ở Rennes đã xác nhận như vậy. Chính vì vậy, tốt hơn là dựa vào sự phòng ngừa, nhất là có nhiều điều phải làm. Trong trường hợp tiếp tục trở lại một hoạt động thể thao sau khi đã ngừng nhiều năm, không nên chờ mong lấy lại mức hiệu năng trước đây, nhưng tái tục ở một mức thấp hơn. Và mặc dầu ngày xưa ta đã làm chủ được kỹ thuật, tốt nhất là theo một lớp học với một giáo sư có văn bằng, bởi vì thân thể đã thay đổi và không còn chịu đựng nữa cùng những biên độ khớp (amplitudes articulaires). Nếu không theo những điều thận trọng này, tennis khi đó trở thành nguồn cung cấp các bệnh viêm gân ở vai và khuỷu tay. Golf, đau cột sống và viêm gân của khuỷu tay đối với những kẻ chơi nhiều.
SPORTS COMPLET.
Dẫu sao, khi một viêm gân xuất hiện, những thủ phạm có thể được nhận diện : “ Một gestuelle tồi, một trang bị không thích ứng hay sự sử dụng không đúng đồ dùng này là những nguyên nhân chính. Có những nguyên nhân khác, như sự kiện không uống nước đủ trong lúc luyện tập hay có một áp xe răng (đó là một nguồn viêm nhiễm của cơ thể), BS Chaory (Stade-Rennais) đã xác nhận như vậy.Vài loại thể thao như marche nordique đang thuận buồm xuôi gió, bởi vì đó là những môn thể thao toàn diện (sports complets). Tuy nhiên phải có được những động tác tốt, nếu không những dây gân của vai và của khuỷu tay có thể bị thương tổn nếu kỹ thuật sử dụng gậy (technique du bâton) không được nắm vững, BS Jan nói tiếp như vậy. Ngược lại, khi ta luyện tập một loại thể thao luôn luôn bắt cùng những nhóm cơ làm việc, phải tuyệt đối bổ sung với những hoạt động khác như randonnée, vélo, jogging, gymnastique trong phòng, khiêu vũ và/hoặc bơi lội,…, chỉ để vui chơi chứ không cố tìm thành tích với bất cứ giá nào.”
Có một giáo sư thể thao, đó cũng là cách tốt nhất tôn trọng một sự lũy tiến tốt trong việc thực hiện tập luyện. Có được những kỹ thuật tăng cường cơ-xương sẽ cho phép tiến triển mà không phải ép sức. Và học những động tác kéo giãn (étirement) nào hữu ích để làm dễ một sự phục hồi tốt. “ Tính lũy tiến này càng quan trọng khi “ talon d’Achille ” của vài vận động viên thể thao, đó là trái tim của họ, GS François Carré (service des explorations fonctionnelles, CHU Rennes) đã nhận xét như vậy. Sự thực hành thể thao trong những điều kiện xấu tăng gấp năm nguy cơ phát khởi một loạn nhịp của tâm nhĩ. Như thế, sự quá mức là kẻ thù của điều tốt.
Và đối với những kẻ không lắng nghe lời khuyên bon sens này, lý luận rằng những nhà vô địch, họ có khả năng làm nhiều hơn nhiều mà không phải vì vậy làm mệt cơ thể, GS Carré giải thích rằng đúng là như vậy, nhưng “ nhà vô địch, anh ta chỉ thực hiện điều đó và để đạt đến một thành tích như vậy, anh ta đã cần nhiều năm tháng ”. Ý kiến được chia xẻ bởi BS Chaory, kết luận : “ Nếu các vận động viên mức độ rất cao hầu như không bao giờ bị viêm gân, đó là có một lý do : gestuelle của họ rất hoàn hảo, họ luyện tập tăng cường cơ gân và những động tác kéo giãn (étirement) sau khi luyện tập. Sau cùng họ rất được theo dõi trên bình diện dinh dưỡng và thường có một vệ sinh tốt về đời sống.”
(LE FIGARO 19/3/2012)
3/ MỌI TRƯỜNG HỢP ĐỨT DÂY GÂN PHẢI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ.
Trong trường hợp đứt coiffe des rotateurs (nơi hội tụ của các dây gân của 4 cơ của vai và cánh tay), không có lựa chọn nào khác là mổ để gắn lại dây gân hay những dây gân vào nơi bám của chúng, sau đó mang một attelle trong 4 tuần để cho vai nghỉ ngơi, rồi bắt đầu lại dần dần hoạt động vật lý.
“ Trong trường hợp đứt dây gân Achille, giải pháp duy nhất cũng là ngoại khoa (trừ khi bị chống chỉ định), sự bất động và phục hồi chức năng hậu giải phẫu, quả thật là quan trọng ”, BS Hubert Silney, bác sĩ trưởng của trung tâm phục hồi chức năng La Chataigneraie Convention (Paris) đã giải thích như vậy. Để đặt tiếp xúc lại hai đầu bị đứt của dây gân Achille, có nhiều kỹ thuật giải phẫu và giải pháp được thực hiện tùy thuộc vào profil của bệnh nhân : “ Trong ngoại khoa cổ điển, thầy thuốc ngoại khoa mổ để nhìn dây gân bằng mắt và nối lại hai đầu, trong khi trong ngoại khoa qua da (chirurgie percutanée), ông ta nối, không cần phải nhìn thấy chúng, hai đầu bị cắt đứt nhờ một sợi chỉ được gắn vào một chiếc kim và đuợc nối với một harpon nhỏ, đến cắm vào một trong hai đầu của dây gân bị đứt. Ngoại khoa qua da kèm theo một nguy cơ tái phát cao hơn ngoại khoa cổ điển, nhưng bù lại nó ít tạo ra những vấn đề về sự liền sẹo và những biến chứng nhiễm trùng, do đó ta đề nghị phương pháp này cho những lão niên và những người không phải vận động viên thể thao, nhất là muốn bước trở lại sớm. Ngược lại, các vận động viên thể thao, không thể chịu một nguy cơ bị một lần đứt mới, là những ứng viên tốt của ngoại khoa cổ điển ”, BS Grosjean (bệnh viện Cochin, Paris) đã xác nhận như vậy.
Trong thực tiễn, hai loại can thiệp này cần một nhập viện ngắn ngày và diễn ra dưới gây mê tại chỗ vùng. Sau khi mổ bệnh nhân được bất động với một botte plâtrée đầu tiên, đặt chân en équin (với gấp vòm bàn chân), trung bình trong 3 tuần. Vì bị cấm tì chân, bệnh nhân phải bước với nạn và dùng thuốc để phòng ngừa nguy cơ viêm tĩnh mạch. Relais được thực hiện với một botte amovible (chân ở 90 độ), trong 3 tuần sau ngoại khoa cổ điển, đôi khi ít hơn sau ngoại khoa qua da, khi đó được phép bước với hai canne. Không phải chỉ có thế : một talonnette bên ngoài botte amovible, rồi bên trong giày, được sử dụng để làm giảm những contrainte tác động lên dây gân Achille. Talonnette này được thu nhỏ dần dần và có thể không cần đến nó một khi dây gân liền sẹo.
PHỤC HỒI LÂU
“ Nhiều người nghĩ rằng thế là giải quyết xong vấn đề, ngay trong thời kỳ hậu phẫu. Điều đó là quá sớm, BS Siney đã nhấn mạnh như vậy, bởi vì trên thực tế, đó là lúc tất cả mới bắt đầu ! Sự phục hồi lâu. Sự phục hồi này lúc đầu nhịp theo quá trình liền sẹo nội tại của các mô, cho đến tháng thứ ba sau mổ. Sự phục hồi được tiếp tục trong những tháng tiếp theo để dẫn đến sự tái tục hoạt động thể thao trong 8 đến 12 tháng sau một can thiệp cổ điển. Như vậy, sự phục hồi phải theo một protocole nghiêm túc và bắt đầu ngay khi lấy đi botte plâtrée vào cuối tuần lễ thứ sáu, theo nhịp 2 hay 3 lần mỗi tuần. ” Mục tiêu : cho tái tục dần dần bước với tì chân. “ Khoảng thời gian dành cho cứng sẹo (consolidation) có thể dài, nhưng đó là cái “ giá ” phải trả để tìm lại một dây gân sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách ”, BS Grosjean và Siney đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 19/3/2012)
4/ MỘT SỰ BIẾN DỊ LÀM DỄ UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT.
Một trắc nghiệm di truyền (test génétique) đơn giản có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ cho phép tiên đoán một người đàn ông có bị một nguy cơ đặc biệt cao phát triển một ung thư tiền liệt tuyến hay không. Khi đó các thầy thuốc sẽ đề nghị với ông ta một sự theo dõi đều đặn. Dầu sao đó là một viễn ảnh được mở ra do sự nhận diện một biến dị nhỏ trên gène HOXB13, được biết về vai trò của nó trong quá trình phát triển tuyến tiền liệt trong thời kỳ phôi thai. Những người đàn ông mang biến dị này thấy nguy cơ của mình gia tăng từ 10 đến 20% so với những người khác. Để có được kết quả này, hai nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ của các đại học John-Hopkins và của Michigan đã khảo sát génome của 94 gia đình, trong đó nhiều người đàn ông đã bị mắc phải loại ung thư này. Phải cần hơn 20 năm nghiên cứu để nhận diện biến dị đầu tiên này, làm gia tăng một cách đặc hiệu nguy cơ bị ung thư di truyền tuyến tiền liệt. “ Cho đến nay, gène làm dễ (gène de prédisposition) duy nhất được biết gây ra những thể gia đình của ung thư tuyến tiền liệt là BRCA2, cũng liên kết với ung thư vú ”, Olivier Cusenot, thầy thuốc niệu khoa thuộc bệnh viện Tenon (Paris) đã xác nhận như vậy. Và nguy cơ phát triển một khối u ít hơn với biến dị mới này. Nhưng trước khi sử dụng khám phá này để điều tra phát hiện sớm, “ phải nghiên cứu một cách chính xác hơn sự phát triển của những khối u ở những người đàn ông này ”, ông đã báo trước như vậy.
(SCIENCE ET VIE 3/2012)
5/ CHỐNG ĐỘT QỤY : LÀM GIẢM TIỀN HUYẾT ÁP (PRÉHYPERTENSION)
Theo một công trình nghiên cứu, điều trị những huyết áp giới hạn (tension artérielle “ limite ”) làm giảm 22% nguy cơ tai biến mạch máu não.
PREVENTION. Bắt đầu từ khi nào phải điều trị cao huyết áp ? Đối với những người trên 50 tuổi, có một sự nhất trí để bắt đầu điều trị ngay khi các trị số huyết ấp trên 140/90 mmHg. Mục tiêu của một chiến lược như thế là làm giảm nguy cơ các đột qụy và nhồi máu. Thật vậy một huyết áp tăng cao là một yếu tố nguy cơ đối với hai bệnh lý nghiêm trọng và thường xảy ra này. Tuy nhiên ta biết rằng huyết áp càng thấp thì nguy cơ bị tai biến mạch máu não càng ít tăng cao.
Trong tạp chí Hoa Kỳ Stroke được công bố hôm qua, các nhà khoa học phát động trở lại cuộc tranh luận về ngưỡng từ đó bệnh nhân phải được điều trị : thật vậy họ cho thấy rằng lúc điều trị các bệnh nhân trên 50 tuổi có một huyết áp giữa 12/8 và 14/9, nguy cơ bị tai biến mạch máu não giảm 22%. Nếu những kết quả như thế có lẽ mang lại hạnh phúc cho các xí nghiệp dược phẩm, có thể sẽ thấy ở đó một sự mở rộng việc sử dụng các thuốc chống cao áp, thì trái lại các thầy thuốc tỏ ra thận trọng hơn, cho rằng ở mức này những chiến lược khác được gọi là vệ sinh-tiết thực có thể hiệu quả để làm giảm tiền cao áp (préhypertension artérielle).
Để cho thấy lợi ích của thuốc trong trường hợp tiền cao áp, các thầy thuốc của Trung tâm tim và huyết quản Harrington-McLaughlin, Cleveland (Hoa Kỳ) đã xem xét và sưu tập tất cả những nghiên cứu được xuất bản về chủ đề này. Hoặc 16 thử nghiệm gồm tổng cộng 70.664 người trên 50 tuổi, được điều trị bởi một một loại thuốc, trong khi huyết áp của họ nằm giữa 12/8 và 14/9. Họ đã có thể quan sát rằng những bệnh nhân sử dụng một thuốc cao huyết áp có một nguy cơ giảm 22% bị đột qụy so với những người dùng một placebo, dầu loại thuốc được sử dụng là gì. Ngược lại, không có một sự giảm số nhồi máu não được ghi nhận, tuy nhiên với một khuynh hướng nhỏ không đáng kể có một nguy cơ về tim ít hơn đối với những người được điều trị. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã tính toán rằng để ngăn ngừa chỉ một cơn đột qụy cần phải điều trị 169 người trong 4 năm 3 tháng.
Ngoài tổn phí rất quan trọng đối với xã hội nếu tất cả những người bị tiền cao áp đều dùng thuốc, phải chăng ta có thể kê đơn các thuốc cao huyết áp, những dược phẩm không phải là không gây nguy cơ như mọi loại thuốc, vì một lợi ích như thế ? “ Những người ở mức huyết áp này có nguy cơ thấp, BS Nicolas Postel-Vinay (Centre de l’hypertension, bệnh viện Georges-Pompidou, Paris) đã giải thích như vậy. Để làm giảm nguy cơ, phải điều trị một số lượng bệnh nhân vô cùng lớn, dĩ nhiên với những tác dụng phụ, đó là chưa nói về phí tổn.”
HOẠT ĐỘNG VẬT LÝ.
Tuy nhiên có thể thực hiện những chiến lược khác. Trong trường hợp tiền cao áp, Hiệp hội tim Hoa Kỳ khuyến nghị không dùng thuốc, nhưng kêu gọi thay đổi lối sống, như làm giảm cân, hoạt động vật lý, giảm tiêu thụ muối, và giảm tiêu thụ rượu.
“ Vài quy tắc đời sống cho phép ở mức này làm giảm huyết áp, G Daniel Thomas (Viện tim, hôpital de la Pitié-Salpetrière) đã xác nhận như vậy. Vài người có một sự nhạy cảm đặc biệt đối với muối và khi làm giảm cung cấp muối có thể làm hạ huyết áp của họ. Thí dụ bằng cách làm giảm tiêu thụ bánh mì, một trong những thức ăn mang lại nhiều muối nhất mỗi ngày ; bằng cách làm giảm sự tiêu thụ charcuteries, fromages, soupe công nghiệp. Ta có thể tác động lên huyết áp bằng cách chống lại sự tăng thể trọng. Hoạt động vật lý, nhất là những bài tập về khả năng chịu đựng (exercices d’enduarnce) 3 hay 4 lần mỗi tuần, điều chỉnh các tiền cao áp, thậm chí các thể trung bình của cao huyết áp. Sau cùng, rượu là một yếu tố nguy cơ có thể góp phần duy trì những trị số cao. Và cũng cần hạn chế sự tiêu thụ.”
Cũng như đối với những tình huống khác, những thay đổi lối sống cũng hiệu quả, nếu không hơn, thì cũng bằng các thuốc chống tiền cao áp.
(LE FIGARO 9/12/2011)
6/ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO : LẠNH CỨU NÃO BỘ
Những điểm chủ yếu – Làm giảm nhiệt độ não bộ xuống 34 độ C cho phép cứu sống các neurone. |
Đó là một giải pháp gây ngạc nhiên được thực hiện ngày nay để làm giảm những hậu quả của một tai biến mạch máu não : làm lạnh rất nhanh não bộ vài độ bằng cách làm hạ nhiệt độ toàn thân của cơ thể. Mục tiêu : làm giảm sự thèm muốn của não bộ đối với oxy và glucose và như thế bảo tồn thêm nhiều neurone, nghĩa là gìn giữ nhiều hơn những chức năng thiết yếu vận động và ngôn ngữ.
Hôm thứ hai, thử nghiệm lâm sàng lớn nhất từng được thực hiện để kiểm tra tính hiệu quả của điều trị này đã được phát động ở Bruxelles. Được thực hiện trong 25 nước và trong 60 bệnh viện cao cấp, thử nghiệm lâm sàng này có thể đưa đến sự phổ biến kỹ thuật trong các bệnh viện và sau đó trong các đơn vị can thiệp nhanh (unité d’intervention rapide), đến trực tiếp ở nơi tai nạn.“ Một tai biến mạch máu não chủ yếu được gây nên bởi một cục máu đông hay một embolie của một động mạch cung cấp máu cho não bộ, BS Jesper Peterson, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh thuộc Đại học Skane (Thụy Điển) đã giải thích như vậy. Điều đó có thể gây tử vong bệnh nhân, nhưng cũng gây chết các neurone đã không được cung cấp oxy và glucose trong một thời gian nào đó. Những phần đó của não bộ bị mất vĩnh viễn, điều này mang lại những hậu quả thần kinh nặng nề. Vài bệnh nhân không còn cử động được nữa, những bệnh nhân khác không còn nói được nữa. Đó là một bệnh mà tác động lên gia đình rất nặng nề. Và mặc dầu tuổi tác là một yếu tố nguy cơ, nhưng 44% những bệnh nhân sống sót sau một tai biến mạch máu não với một phế tật nặng nề lại dưới 60 tuổi.”
Ở NHIỆT ĐỘ 34 ĐỘ, TA CHỨNG THỰC 45% NHỮNG TRƯỜNG HỢP NHỒI MÁU NÃO ÍT HƠN.
“ Điều trị duy nhất mà chúng ta có ngày nay là sử dụng những loại thuốc làm tan một cách nhanh chóng tắc động mạch, điều mà ta gọi là một thuốc làm tan huyết khối (antithrombotique).”, BS Charlotte Cordonnier (Bệnh viện đại học Lille) đã giải thích như vậy. “ Những kỹ thuật này phải được áp dụng chậm nhất trong 4 giờ sau những triệu chứng đầu tiên. Vì tai biến mạch máu não không gây đau đớn, nhưng gây các bại liệt chi, thường trên ½ cơ thể hay gây nên những vấn đề diễn đạt, do đó các bệnh nhân bị tai biến mạch máu não đôi khi lẩn lộn chúng với các đau cơ và chậm gọi cấp cứu, điều này làm họ bị đánh mất cơ hội để được điều trị bởi thuốc làm tan huyết khối.
Trên bình diện châu Âu, ta cho rằng chỉ ¼ bệnh nhân đến bệnh viện đúng lúc để được điều trị và chỉ ¼ được điều trị như thế khỏi bệnh không bị di chứng. Đó là rất ít. Quá ít. Chính vì vậy kỹ thuật làm lạnh não bộ dường như đầy hứa hẹn đối với chúng ta. Những công trình nghiên cứu động vật đã cho thấy rằng sự giảm nhiệt độ cơ thể xuống 35 độ thay vì 37,2 làm giảm 1/3 kích thước của nhồi máu neurone. Và 45% nếu ta xuống đến 34 độ.
Lạnh làm não bộ như thể trong một tình trạng ngủ lịm, trong khi ta thường nhận thấy sốt và tăng cao nhiệt độ ở những bệnh nhân bị tai biến mạch máu não. “ Chúng tôi sử dụng một tiêm truyền dung dịch muối được làm lạnh, phối hợp với sự phủ lên cơ thể bệnh nhân một tấm mền làm lạnh (couverture refroidissante), bởi vì máu lưu thông rất nhanh từ các động mạch đến não bộ, vì thế máu đến trung tâm của não bộ một cách hiệu quả hơn ”, BS Bart van der Worp, thuộc bệnh viện đại học Utrecht, đã giải thích như vậy. Thử nghiệm sẽ được thực hiện trên 1500 người tình nguyện trong 4 năm.
Hạ thân nhiệt (hypothermie) làm giảm nhiệt lượng của cơ thể Trong khi những tác dụng bảo vệ thần kinh của lạnh đã được báo cáo ngay cuối những nam 1950, kỹ thuật sau đó bị bỏ xó không dùng nữa để rồi lại nảy sinh từ một chục năm nay. |
(LE SOIR 20/3/2012)
7/ NHỮNG RỐI LOẠN HIỀN TÍNH CỦA TRÍ NHỚ.
Nhiều trường hợp quên do quá trình lão hóa không được làm lo ngại bệnh Alzheimer.
NEUROSCIENCES. Tìm kiếm nhan đề của một cuốn sách, tên của một diễn viên, nơi ta đã đặt các chìa khóa : không thiếu gì nhưng cơ hội để trắc nghiệm trí nhớ. Những trường hợp khác, chính kỹ niệm của cái gì đó mà ta đã sống (mémoire autobiographique) trở nên mờ nhạt.Tức thời ta lo lắng, ta tự hỏi không biết có phải ta đang bắt đầu bị bệnh Alzheimer hay không.
Trên thực tế, sự không trung thành của trí nhớ của chúng ta là một hiện tượng bình thường : “ Trí nhớ tự thuật (mémoire autobiograhique) là một trí nhớ thay đổi luôn (mémoire mouvante), được xây dựng lại một cách thường trực, hoàn toàn khác với một trí nhớ được kết tinh (mémoire cristallisée) ”, GS Pascale Poliono, trưởng laboratoire de recherche chuyên về trí nhớ ở đại học Paris-Descartes đã giải thích như vậy. Nhà khoa học thần kinh (neuroscientifique) này ngay cả cho rằng một não bộ nếu không còn có khả năng quên sẽ nhanh chóng bị làm tắc nghẽn bởi sự đổ đồn của các thông tin, tấn công nó một cách thường trực và não bộ sẽ không còn có thể hoạt động một cách đúng đắn.
GHI (ENCODAGE), TÍCH TRỮ (STOCKAGE) VÀ THU HỒI (RAPPEL)
Ngày nay, mặc dầu trí nhớ đã không tiết lộ tất cả các bí mật của mình, nhưng một sự nhất trí về một chức năng gồm ba động tác đã được xác lập : ghi (encodage) các thông tin, tích trữ (stockage) và nhớ lại (rappel) những thông tin này. “ Sự lão hóa không biến đổi hoặc biến đổi rất ít những năng lực tích trữ ”, GS Bruno Dubois, giám đốc của Viện trí nhớ và của Alzheimer (Bệnh viện Pitié-Salpêtrière, Paris) đã nói rõ như vậy. “ Ngược lại, trong suốt quá trình lão hóa bình thường có một sự giảm các ressources attentionnelles cần thiết để ghi hay thu hồi lại những thông tin đã được tích trữ.”
Điều này khác hẳn trong bệnh Alzheimer, bởi vì trong bệnh này chủ yếu chính khả năng tích trữ bị ảnh hưởng. Bệnh nhân không ý thức là mình quên (anosognosies) và trí nhớ càng ngày càng suy đồi với sự tiến triển của bệnh. “ Vào giai đoạn bắt đầu, GS Piolino đã giải thích như vậy, sự thiếu sót ảnh hưởng lên trí nhớ tự thuật mới xảy ra (mémoire autobiographique récente), ở giai đoạn trung bình, chỉ còn tồn tại những kiến thức tương đối cũ và ở giai đoạn nặng chỉ còn những kiến thức của thời thơ ấu là còn chống lại sự quên (amnésie).” Đối với GS Dubois, “ chủ yếu chính sự khó khăn trong việc ghi nhớ do thương tổn hồi hải mã (một vùng của não bộ đóng một vai trò chủ yếu trong trí nhớ) là đáng quan tâm bởi vì khi đó có thể đó là một Alzheimer .”
Nhờ các trắc nghiệm về trí nhớ các thầy thuốc thần kinh có khả năng xác định một cách chính xác một vấn đề về trí nhớ nằm ở mức nào của trí nhớ (encodage, tích trữ, thu hồi). “ Kêu ca về trí nhớ của mình thường chẳng có liên quan gì với bệnh về trí nhớ, GS Dubois nói thêm như vậy. Đó là một hiện tượng bình thường, do một rối loạn chú ý (trouble attentionnel).” nói một cách khác, nếu các bạn đã không chú ý vào thời điểm mà bạn muốn ghi nhớ cái gì đó, sự ghi (encodage) không được thực hiện tốt hay không được thực hiện gì cả. Thế mà, điều đã không được ghi (encodé) sẽ không thể được tích trữ (stocké). Đó là chưa kể rằng với tuổi tác gia tăng, phải làm nhiều cố gắng hơn để ghi nhớ cùng một chuyện. Apprentissage may mắn thay vẫn có thể được nhưng đòi hỏi nhiều cố gắng và tập trung hơn bởi vì ta phải huy động nhiều khả năng chú ý (ressources attentionnelles) hơn.
Trong vài tình trạng, khó mà huy động được những hệ ghi nhớ khác nhau của não bộ : trong khi bị trầm cảm, khi ta lo lắng hay bận tâm, nếu ta thiếu ngủ hay khi ta sử dụng vài loại thuốc như các benzodiazépines. Trí nhớ cũng là một hiện tượng hóa học.
SỰ LIÊN KẾT CÁC Ý TƯỞNG.
Ngược lại có một hệ thống của não bộ mang lại một lợi thế cho những não bộ bị lão hóa hơn : sự liên kết các ý tưởng (association d’idées). Ta càng già, ta càng có nhiều kỹ niệm, và do đó ta càng có khả năng liên kết một kiến thức mới với những kiến thức cũ hơn. “ Bằng cách tạo nhiều liên kết (association), các giây liên hệ (lien) càng mạnh và trí nhớ càng mạnh, nhà tâm lý học David Schacter, giáo sư Đại Học Havard (Hoa Kỳ) và là một trong những chuyên gia lớn của trí nhớ, đã giải thích như vậy. Thế mà, hệ liên kết (système associatif) này không những cho phép một sự tích trữ (stockage) vững chắc hơn mà còn một sự nhớ lại (rappel) dễ dàng hơn. Kỹ niệm được ghi trong một mạng được nối kết nhau (un réseau interconnecté) chứ không phải trong một ngăn kéo riêng biệt của trí nhớ của các bạn.
NHỮNG BÍ ẨN
Ngoài ra chính sự suy yếu của các liên kết ngẫu nhiên giải thích phần nào sự khó khăn nhớ lại những tên riêng : “ Ta không thể dựa vào một logique de mémorisation nào đối với những tên người. Không có một logique nào trong một danh từ riêng, GS Dubois đã nhấn mạnh như vậy. “ Làm sao tìm ra một logique, một mối liên hệ để gán một tên cho một khuôn mặt hay một thân thể ? Không thể được …phải tạo tất cả điều đó. Điều đó sẽ được tăng cường bằng sự lập lại nhưng mối liên hệ này mong manh.” Tóm lại, không có gì phải lo lắng.
Các nhà khoa học vẫn còn lâu mới chọc thủng được những bí mật của trí nhớ.Thí dụ, amnésie infantile là do đâu ? Sự vắng mặt gần như hoàn toàn những ký ức được ghi trước 3-4 tuổi ? Tại sao vài kỹ niệm đặc biệt được ghi khắc trong trí nhớ của chúng ta khi chúng được kèm theo bởi một cảm xúc mạnh vào lúc encodage chúng ?
(LE FIGARO 16/1/2012)
8/ THUỐC CHỦNG CÓ HIỆU QUẢ ĐỂ PHÒNG NGỪA BỆNH ZONA.
Nhờ tiêm chủng, ta đã biết rằng ta có thể làm giảm hơn 60% nguy cơ mắc phải bệnh zona ở những người tuổi từ 60 đến 70. Nhưng đối với những người từ 50 đến 60 tuổi thì sao, ở lứa tuổi này xảy ra 20% những trường hợp bệnh zona do một sự tái hoạt động của virus thủy đậu-zona. Ngày nay, một thử nghiệm rộng rãi được kiểm tra cho thấy rằng vaccin cũng có hiệu quả trong nhóm tuổi này. Hơn 11.000 người và 11.000 người chứng đã được theo dõi trong hơn 1 năm sau khi được tiêm vaccin hay một placebo. Trong số 129 trường hợp zona được quan sát, 111 đã được xác nhận bởi một kỹ thuật sinh học phân tử, PCR (Polymerase Chain Reaction), trong đó 87 trường hợp ở những người đã nhận một placebo và chỉ 24 trường hợp zona ở những người được tiêm chủng. Sự khác nhau này tương đương với một tỷ lệ hiệu quả 70%. Không một trường hợp tử vong nào được quy cho vaccin, vì vậy thuốc chủng vừa mới được FDA Hoa Kỳ chấp thuận để đưa ra thị trường.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2012)
9/ SỰ KIỆN THỌ TRĂM TUỔI CÓ PHẢI DO MÔI TRƯỜNG HAY DO DI TRUYỀN ?
Jean-Marie Robine
Directeur de recherche
Centre de recherche médecine, sciences, santé,
santé mentale et société
Villejuif
Tuổi thọ (longévité) được định nghĩa bởi 3 tham số : hy vọng sống vào lúc sinh (espérance de vie à la naissance), thời gian sống thường gặp nhất của những người trưởng thành và tuổi cao nhất vào lúc chết, điều mà các nhà sinh học gọi là maximum life span. Hy vọng sống (espérance de vie) của chúng ta là kết quả tổng hợp của hai yếu tố : xác suất đạt đến tuổi trưởng thành của chúng ta và khoảng thời gian của cuộc sống người trưởng thành của chúng ta. Được ước tính là giữa 20 và 25 vào thời đại đồ đá mới (néolithique), hy vọng sống đạt 84,5 tuổi đối với các phụ nữ và 77,8 tuổi đối với đàn ông ở Pháp vào năm 2009.
MỘT TIỀM NĂNG SỐNG LÂU ĐÁNG KỂ
Chính sự giảm tỷ lệ tử vong của các trẻ em trước hết giải thích sự gia tăng của hy vọng sống. Ngày nay, những lứa tuổi thường gặp nhất vào lúc chết nằm giữa 85 và 90. Những lứa tuổi cao nhất khó ước tính hơn nhiều ; hầu hết các xã hội đã không ghi nhận một cách chính xác các lứa tuổi lúc chết trước thế kỷ XIX. Tuy nhiên, điều chắc chắn là vài người đã đạt đến tuổi 90 vào thế kỷ XVIII, mặc dầu những người bách niên vẫn ngoại lệ trong suốt thế kỷ XIV và hiếm cho mãi đến những năm 1950. Từ đó ta quan sát thấy một sự bùng nổ số người bách niên. Trường hợp của Jeanne Calment, chết năm 1997 lúc 122 tuổi vẫn hoàn toàn ngoài định mức.
Những quan sát này cho thấy rằng tiềm năng sinh học của tuổi thọ loài người là đáng kể. Tiềm năng này là do các gène của chúng ta.Trong một môi trường không được biến đổi hay ít được biến đổi bởi nó, con người chỉ sống 20 năm. Tác động của con người lên môi trường đã nhân lên gấp 3 hay 4 thời gian sống trung bình của nó trong suốt quá trình lịch sử. Sự thực hiện tiềm năng làm sống lâu này tùy thuộc vào những điều kiện môi trường (sự an toàn và đảm bảo về mặt vật lý và thực phẩm, tình trạng vệ sinh và khả năng tiếp cận săn sóc điều trị, sự bảo vệ chống lạnh, tình trạng ẩm ướt, nhiệt độ và các bức xạ…) phần lớn được kiểm soát bởi con người.
Sự phát triển của nên văn minh cũng đã cho phép làm giảm rất nhiều sự biến thiên của thời gian sống. Ngày nay, những lứa tuổi cao nhất đạt được ở Pháp, đó là khoảng trên 35% hy vọng sống (ở các phụ nữ lần lượt là 122 tuổi và 84,5 tuổi).
SỰ TIẾN BỘ TỔNG QUÁT CỦA CÁC SĂN SÓC ĐIỀU TRỊ
Ngày nay, ngay cả chỉ có gène de l’apolipoprotéine E được liên kết một cách rõ ràng với tuổi thọ ở người, vẫn có tất cả những lý do để nghĩ rằng tiềm năng sinh học tuổi thọ thay đổi tùy theo mỗi cá thể như bất cứ trait biologique nào, tùy theo những đặc điểm di truyền. Mặt khác, mặc dầu một phần lớn dân chúng các nước phát triển hưởng được những tiến bộ về săn sóc điều trị, giáo dục, dinh dưỡng, những điều kiện lao động và nhà ở, nhưng không phải tất cả đã tích lũy những yếu tố môi trường này, thuận lợi cho sự biểu hiện tiềm năng sống lâu của họ.
Vậy ta có thể nghĩ rằng những người đã không được nhận đồng thời một vốn di truyền (capital génétique) khiến họ ít thuận lợi để được sống lâu và chịu những yếu tố môi trường bất lợi sẽ chết sớm hơn nhiều những kẻ đã quy tụ những yếu tố di truyền và môi trường thuận lợi nhất, hầu như được đảm bảo trở thành những người 90 tuổi hay bách niên, thậm chí siêu bách niên (supercentenaire).
Nằm giữa hai thái cực, sự phối hợp “ vốn di truyền thuận lợi- môi trường bất thuận lợi ” hay ngược lại giải thích những thời gian sống gần với mức trung bình hơn.
(LE FIGARO 29/8/2011)
10/ UNG THƯ THẬN DI CĂN : NHỮNG TRƯỜNG HỢP THUYÊN GIẢM HOÀN TOÀN ĐẦU TIÊN
BS Bernard Escudier, thầy thuốc chuyên ung thư thận thuộc Viện Gustave-Roussy de Villejuif, cùng với BS Laurence Albiges, mô tả tính hiệu quả của một protocole miễn dịch liệu pháp mới, nêu lên việc ngừng điều trị.
Hỏi : Ta có thường khám phá những trường hợp ung thư thận ở một giai đoạn tiến triển hay không ?
GS Bernard Escudier. Loại ung thu này, làm biến đổi một cơ quan nằm trong sâu, vẫn không có triệu chứng trong một thời gian lâu. Trên 10.000 trường hợp được liệt kê mỗi năm, chúng tôi ước tính khoảng 22% những trường hợp được khám phá tức thời vào một giai đoạn tiến triển, và 20% khác, mặc dầu điều trị ngoại khoa, đang thoái biến và sẽ phát triển những di căn về sau. 60% còn lại, được chẩn đoán vào một giai đoạn khu trú, sẽ được chữa lành chỉ với phẫu thuật.
Hỏi : Có những dấu hiệu báo trước có thể làm báo động không ?
GS Bernard Escudier. Dĩ nhiên, sự hiện diện máu trong nước tiểu, triệu chứng đặc trưng nhất, phải khiến đi thăm khám. Cũng như đau ở vùng thận. May mắn thay, những ung thư này thường được khám phá một cách tình cờ, khi làm siêu âm kiểm tra.
Hỏi : Có những yếu tố làm dễ làm gia tăng các nguy cơ không ?
GS Bernard Escudier. Giới tính (2/3 đàn ông bị bệnh đối với 1/3 phụ nữ), thuốc lá, cao huyết áp, chứng béo phì và có lẽ vài sản phẩm hóa học, nhất là dầu hỏa.
Hỏi : Cho đến nay, tùy theo các giai đoạn, làm sao điều trị những ung thư thận này ?
GS Bernard Escudier. Nếu ung thư chỉ khu trú, yếu tố chủ yếu là ngoại khoa, bằng cách lấy đi hoàn toàn tất cả trái thận hoặc một phần, tùy theo các trường hợp.Ở giai đoạn di căn, mục tiêu đầu tiên nói chung là phổi, rồi gan và những cơ quan khác. Ở giai đoạn này, đối với loại ung thư này, ta đã nhận thấy rằng hóa học liệu pháp vẫn không có hiệu quả trong đại đa số các trường hợp. Trong 15 năm, ta đã thử nhiều protocole trong mục đích giết chết những tế bào ung thư nhưng vô ích. Chính khi đó mà các nhà nghiên cứu hướng về miễn dịch liệu pháp (immunothérapie), để tăng cường khả năng phòng vệ miễn dịch. Nhưng với những tác dụng phụ rất nặng nề.
Hỏi : Khi nào ta đã quan sát những tiến bộ đầu tiên ?
GS Bernard Escudier. Vào năm 1990, lúc đó một bước tiến quan trọng đã được chào đón bởi tất cả các nhóm nghiên cứu trên thế giới. Đó là sự khám phá quá trình angiogenèse. Để được nuôi dưỡng, khối u cần máu và oxy. Để được như vậy, khối u phải có những mạch máu riêng của mình. Các tế bào ung thư tiết ra những chất được gọi là “ proangiogéniques ” . Những chất làm dễ sinh mạch máu này sẽ “ khiến chế tạo ” những mạch máu mới. Từ đó nảy sinh ý tưởng tìm cách ngăn cản sự phát triển của những yếu tố nuôi dưỡng này.
Hỏi : Làm sao ta đã làm chậm được, thậm chí làm vô hiệu hóa sự phát triển của những tế bào ung thư này ?
GS Bernard Escudier. Ta đã phát triển trong phòng thí nghiệm những loại thuốc chống sinh mạch máu (anti-angiogénique), nhằm “ bỏ đói ” một cách đặc hiệu những tế bào của khối u thận (truyền tĩnh mạch hay tiêm dưới da). Đó là điều mà ta gọi là “ một liệu pháp nhắm đích ” (thérapie ciblée). Vào năm 2007, những kết quả của các công trình nghiên cứu đã tỏ ra vô cùng thỏa mãn. Khi đó ta thu được 70 đến 80% những trường hợp thuyên giảm. Nhưng ngay khi ta ngừng điều trị, bệnh tái xuất hiện. Và với những tác dụng phụ làm biến đối chất lượng sống, như những rối loạn tiêu hóa quan trọng. Ngày nay chúng ta đã tự đặt câu hỏi : “ Vì lẽ chúng ta có những bệnh nhân vẫn còn sống sau 15 đến 20 năm với miễn dịch liệu pháp, thế tại sao không thử một lần nữa ngừng điều trị chống sinh mạch máu (traitement anti-angiogénique) ?
Hỏi : Protocole của công trình nghiên cứu mới nhất của ông là gì ?
GS Bernard Escudier. Với đồng nghiệp của tôi Laurence Albiges, chúng tôi đã quy tụ ở Pháp 64 bệnh nhân trong tình trạng thuyên giảm hoàn toàn, để quan sát tác dụng của việc ngừng điều trị. Tất cả đều được phẫu thuật cắt bỏ thận và được điều trị bởi sunitinib hay sorafénib. Vài bệnh nhân cũng đã nhận phóng xạ liệu pháp. Kết quả : sau một năm, cứ hai bệnh nhân thì một bệnh nhân không bị tái phát, và, chúng tôi hy vọng được chữa lành hoàn toàn. Những bệnh nhân đã bị tái phát lại được điều trị ; hôm nay, những bệnh nhân này đã trở lại tình trạng trước đây, tình trạng của một sự thuyên giảm được duy trì nhờ điều trị ban đầu. Hiện nay, với một thời gian nhìn lại hơn 2 năm, chúng tôi đã có 35 bệnh nhân sống bình thường, mà không phải dùng thuốc hàng ngày.
Hỏi : Giai đoạn kế tiếp sẽ là gì ?
GS Bernard Escudier. Chúng tôi sẽ phân tích trong phòng thí nghiệm những mẫu nghiệm được lấy trên những khối u của các bệnh nhân trong tình trạng thuyên giảm hoàn toàn. Chúng tôi muốn hiểu tại sao, sau những điều trị chống sinh mạch máu (traitement anti-angiogénique), vài ung thư tái phát còn những ung thư khác thì không. Chúng tôi cũng sẽ cố biết trước có thể tiên đoán một sự ngừng điều trị hay không.
(PARIS MATCH 15/3 – 21/3/2012)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(3/4/2012)