Múc Ánh Trăng Vàng
Nhạc: Hoàng Thi Thơ
Kể về Tân nhạc tại miền Nam trước 1975 mà bỏ qua cặp vợ chồng song ca Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết thì quả là một thiếu sót.
Người miền Nam bấy giờ rất mê nhạc. Cải lương thì có Thanh Nga, tuồng cổ thì có Phùng Há, vọng cổ thì có Út Trà Ôn… Tuy vậy lớp trẻ lại thích Tân nhạc hơn. Chính quái kiệt Trần văn Trạch là người cải tiến các show diễn. Ông đề nghị thêm phần biểu diễn Tân nhạc vào trước các buổi chiếu phim, về sau lại tổ chức các chương trình Đại nhạc hội. Cũng chính ông là người giới thiệu cặp “danh ca miền Trung” Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết trước công chúng Sài Gòn. Cặp danh ca này nổi tiếng với khán thính giả miền Nam từ đó, với các bản dân ca hay tình ca, trên các sân khấu nhạc hội hay qua làn sóng phát thanh. Những đĩa nhạc của họ bán chạy như tôm tươi và có sức lan tỏa rộng trong quần chúng nghe nhạc.
Với thế hệ đi trước, Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết là hai giọng ca dân dã, thật gần gũi với Quê hương, tự nhiên mà truyền cảm, rất “Vietnamese – native” như những món cơm hến, bún bò Huế…
Trong “Múc Ánh Trăng Vàng”:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Nguyên là 2 câu thơ trong bài “Trăng Quê” của nhà Thơ “Bàng bá Lân” đã dần dần đi vào lòng người để trở thành một trong những câu Ca dao trữ tình hay.
TRĂNG QUÊ
Trời cao,mây bạc,trăng tròn
Đê than hiu quạnh,tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ?
Ý nghĩa của câu thơ tuy đơn giản nhưng trữ tình đầy ” ẩn dụ” để nói lên sự quan tâm và ưu ái của chàng trai đối với cô thôn nử đang tát nước bên đường, một sự ca tụng vẽ đẹp của người con gái mà chàng để ý tuy mông lung, ẩn ý nhưng không kém phần duyên dáng, hàm ý….làm quen
Nói đến cặp Nghệ sĩ nức tiếng Ngọc Cẩm & Nguyễn Hữu Thiết pre-1975 ở miền Nam chả ai mà không biết đến.
Từ nhỏ đã mê hát, lúc ra Huế học trung học, Nguyễn Hữu Thiết được một giáo sư người Pháp dạy xướng âm. Sau năm 1945, ông hoạt động Văn nghệ ở chiến khu Tuyên Hóa (Quảng Bình) thời Chiến tranh chống Pháp và năm 1948 kết hôn với Ngọc Cẩm.
Cuối năm 1953, ly khai, về Sài Gòn và trở thành một đôi song ca ăn ý. Ông là cha của 2 nghệ sỹ Hồng Danh và Hồng Hạnh trưởng thành ở miền Nam sau 1975.
Ông mất cuối năm 2002, thọ 75 tuổi, tại nhà riêng 20/C16, đường Hai Bà Trưng (Trần Quốc Toản cũ), Quận 10, SaiGon.
Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực ca hát, Nguyễn Hữu Thiết còn là một Nhạc sĩ sáng tác. Từ tác phẩm đầu tay Đợi con về (viết năm 1946), cho đến nhạc phẩm cuối cùng Anh nhớ về thăm mẹ (2002) là một quãng thời gian hơn nửa thế kỷ miệt mài trong Nghệ thuật, với những ca khúc đã trở nên quen thuộc và được công chúng ưa thích như: Chàng là ai?, Nàng là ai?, Ai đi ngoài sương gió, Gởi người tôi yêu, Giọt mưa chiều hay nước mắt em?, Tìm mãi thương yêu, Tình trao xuân nữ, Mưa chiều nhớ nhau…
Hà Đình Nguyên viết về Nguyễn Hữu Thiết & Ngọc Cẩm như sau:
Hát những bài hát yêu nước giữa Sài Gòn
Khoảng đầu thập niên 1950, khi các rạp chiếu bóng ở Sài Gòn còn đang thịnh hành kiểu hát phụ diễn (hát trước giờ chiếu phim) thì có một đôi uyên ương từ Huế vào và ngay lập tức tạo nên sự “bùng nổ” trên sân khấu.
Chàng vóc người cao dong dỏng, ôm guitar thùng và chất giọng trầm ấm thiên phú hòa vào tiếng hát lảnh lót, thoảng nhẹ như gió của nàng. Làng giải trí Sài Gòn xôn xao bởi họ không hát nhạc Tây (lời Pháp hoặc đặt lời Việt) như nhiều ca sĩ bấy giờ mà dân Sài Gòn lần đầu tiên nghe được những bài hát yêu nước do chính người Việt sáng tác. Đó là những Lời người ra đi, Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Bà mẹ quê, Bà mẹ Gio Linh (Phạm Duy), … và cả những ca khúc trữ tình, thấm đẫm phong vị làng quê như Gạo trắng trăng thanh, Trăng rụng xuống cầu (Hoàng Thi Thơ)…
Thời ấy, báo chí Pháp ngữ và Việt ngữ ở Sài Gòn hầu như ngày nào cũng viết bài, đăng ảnh của đôi uyên ương này. Rồi những hãng đĩa ghi âm vào cuộc. Chỉ tính 2 ca khúc Gạo trắng trăng thanh và Trăng rụng xuống cầu (Hoàng Thi Thơ) do hãng đĩa Asia phát hành trên khắp Đông Dương đã bán được hàng triệu đĩa (con số này vẫn là kỷ lục cho đến nay). Đến nỗi một hãng ghi âm khác đã đề nghị tặng Nguyễn Hữu Thiết chiếc xe hơi Consul mới cáu để ông chuyển qua ghi âm cho hãng này.
Nguyễn Hữu Thiết sinh năm 1927 tại Phan Thiết (quê gốc Triệu Phong, Quảng Trị). Từ nhỏ đã có năng khiếu ca hát, nên khi theo học bậc trung học ở Huế và được bà giáo sư âm nhạc người Pháp tận tình dạy bảo ông rất vững về nhạc lý. Khi Cuộc chiến chống Pháp bùng nổ thì Nguyễn Hữu Thiết đang theo học ban Tú tài, ông bỏ học ôm đàn cùng bạn bè (Nguyễn Hữu Ba, Phạm Duy, Bùi Công Kỳ…) tham gia phong trào Văn nghệ yêu nước ở Huế. Khi chiến tranh lan đến Huế, Nguyễn Hữu Thiết đã cùng nhóm bạn bè văn nghệ này kéo nhau lên chiến khu Tuyên Hóa (Quảng Bình) tiếp tục phục vụ kháng chiến. Chính tại đây, ông gặp lại cô ca sĩ Ngọc Cẩm (sinh năm 1931, quê Phú Vang, Huế) mà trước đây họ đã từng mến mộ nhau trong những ngày tháng sinh hoạt văn nghệ ở Huế. Họ chính thức kết hôn vào năm 1948, lễ cưới diễn ra ngay trong chiến khu. Cuối năm đó, đôi uyên ương còn theo đoàn quân tình nguyện ra tận các chiến khu ở Tuyên Quang, Thái Nguyên… Tuy nhiên, đến cuối năm 1953 do sức khỏe của Ngọc Cẩm không cho phép theo đuổi cuộc kháng chiến trường kỳ nên cấp trên đã cho phép vợ chồng họ được trở về hoạt động ở Liên khu 4. Đầu năm 1954, họ trở về Huế.
Những ngày ở Huế, đôi uyên ương Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm lao vào khổ luyện, quyết tâm tạo cho mình một phong cách song ca thật độc đáo. “Gia tài” quý hiếm của họ chính là những ca khúc yêu nước, nặng tình Quê hương… mà trước đây đã từng theo họ rong ruổi trên bước đường phục vụ chiến đấu. Các ca khúc này được họ thổi vào những vùng tạm chiếm (từ quân Pháp) như một luồng gió mới và được công chúng say sưa đón nhận. Tuy nhiên, mảnh đất Thần kinh vốn chật hẹp, hầu như không đủ chỗ để đôi uyên ương này vẫy vùng, múa hót và thế là họ đưa nhau vào Sài Gòn. Và như đã kể ở trên, người Sài Gòn đã đón nhận họ một cách nồng nhiệt.
“Hiện tượng” Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm
Trên sân khấu ca nhạc Sài Gòn vào nửa cuối thập niên 1950, có đến ba cặp uyên ương gồm: Mạnh Phát – Minh Diện, Châu Kỳ – Mộc Lan và Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm. Mỗi cặp đều có nét đặc sắc riêng, nhưng cặp Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm hoạt động “rầm rộ” hơn cả. Ngoài “hiện tượng” ghi âm hai bài hát Gạo trắng và Trăng rụng (thời đó, người mua thích gọi tắt như vậy), còn có sự ra đời của Ban dân ca Nguyễn Hữu Thiết (Ban Hương Giang) hát ở đài phát thanh với sự cộng tác của nhiều ca sĩ tài danh: Thái Thanh, Mai Hương, Thanh Thúy, Tuyết Hằng, Thanh Tuyền… Nhạc công có: Nghiêm Phú Phi (piano), Y Vân (contre bass), Nguyễn Hiền (flute), Đan Thọ, Nguyễn Quý Lãm, Đặng Văn Hiền (violon), Xuân Lôi, Xuân Tiên (saxo)… Không chỉ hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn, họ còn lập ra Đoàn ca múa nhạc tạp kỹ Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết để đi lưu diễn ở nhiều tỉnh trong nước và ở cả Lào, Campuchia. Thường có mặt trong đoàn này là Ban hợp ca Thăng Long, kỳ nữ Kim Cương, quái kiệt Trần Văn Trạch, các nghệ sĩ Bảy Xê, Ba Vân, Bích Sơn, Bích Thuận, vũ bộ Mỹ An…
Hoạt động âm nhạc của Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm không chỉ có “bề nổi” làm người ta chú ý mà chính sự chung thủy, bền bỉ sát cánh bên nhau của hai ông bà mới khiến cho công chúng quý trọng, nể phục. Tiếng hát của họ quyện vào nhau từ thời còn son trẻ cho đến lúc ông bước qua ngưỡng “cổ lai hy”, được người khác dìu lên sân khấu, ngồi vào chiếc ghế gỗ. Bà vẫn đứng hát bên cạnh ông nhưng giờ đây không chỉ có hai giọng hát mà hòa vào làn hơi ấy còn có tiếng hát của nữ ca sĩ Hồng Hạnh – cô con gái yêu của họ.