Thời sự y học số 257 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ RƯỢU VÀ BỆNH BÉO PHÌ : NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA XƠ GAN
Xơ gan không những chỉ do rượu và các virus của viêm gan.
HEPATOLOGIE. Đối với nhiều người, xơ gan đồng nghĩa với lạm dụng rượu. Tuy vậy ta có thể bị chứng bệnh gan này nhưng đã không bao giờ lạm dụng hay uống một giọt rượu nào ! “ Ngày nay, mặc dầu rượu vẫn còn chiếm 50% các nguyên nhân của xơ gan, nhưng có nhiều nguyên nhân khác ”, B Lawrence Serfaty, thầy thuốc chuyên khoa gan thuộc CHU Saint-Antoine, Paris, đã giải thích như vậy.
Các bệnh viêm gan C (và B ở một mức độ ít hơn) là những nguyên nhân trong 30% các trường hợp. Vài xơ gan còn do một sự quá tải sắt nguồn gốc di truyền (hémochromatose) hay do những bệnh tự miễn dịch hiếm.

BỆNH GAN NHIỄM MỠ
Điều mới từ nhiều năm nay, đó là 10% các trường hợp xơ gan có một nguồn gốc chuyển hóa. Bệnh xơ gan là biến chứng của điều mà các người Anh gọi là “ NASH ” hay theo tiếng Pháp là viêm gan nhiễm mỡ không phải do rượu (Stéatohépatite non alcoolique). Căn bệnh gan này được gặp chủ yếu trong trường hợp chứng béo phì hay bệnh đái đường và được thể hiện bởi sự tích tụ triglycérides trong các tế bào gan. “ Mặc dầu rượu và viêm gan vẫn còn là nguyên nhân của 2/3 trường hợp viêm gan nặng cần phải ghép gan, chứng béo phì là một nguyên nhân mới cần được xét đến. Nhất là tình trạng gia tăng thể trọng (surpoids) và bệnh đái đường đang tiến triển ở Pháp : vậy ta có thể dự kiến nhiều bệnh gan nhiễm mỡ hơn trong những năm sắp đến ”, BS Patrick Hillon, trưởng pôle médico-chirurgical digestif endocrinien et urologique thuộc CHU de Dijon, đã nhấn mạnh như vậy.
Tính đổ đồng các nguyên nhân, các trường hợp xơ gan là khá thường gặp : ta ước tính rằng 2000 đến 3000 người Pháp bị xơ gan trên 1 triệu dân, nhưng nhiều người không biết là mình bị bệnh. “ Sự kiện có nhiều yếu tố nguy cơ, thí dụ viem gan C và tăng thể trọng hay một khuynh hướng uống rượu và chứng béo phì làm gia tăng rất nhiều xác suất này ” , GS Christine Silvain, trưởng khoa tiêu hóa CHU de Poitiers đã nhấn mạnh như vậy. Nhưng bởi vì một viêm gan trung bình cần 10 năm để tạo thành, nên “ phải thăm khám nếu ta có một hay nhiều yếu tố nguy cơ, để có cơ may được điều trị đúng lúc ”, BS Bernard Nalet, trưởng pôle nội-ngoại tiêu hóa và ung thư thuộc centre hospitalier de Montélimar đã nhấn mạnh như vậy.
ÍT ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN
Tuy vậy chính chẩn đoán là khâu yếu của sự xử trí bệnh lý này. Xơ gan ít được chẩn đoán vì nhiều lý do : sợ thú nhận với thầy thuốc của mình một sự lạm dụng rượu hay một tiền sử nghiện ma túy bằng đường tĩnh mạch, không biết nguy cơ đã bị tuyền một viêm gan C lúc được truyền máu trước năm 1990, không hay biết sự kiện là một tình trạng gia tăng thể trọng có thể lót đường cho bệnh xơ gan, thành kiến cho rằng một viêm gan nhất thiết phải kèm theo các triệu chứng, trong khi rất thường, bệnh tiến triển trước hết trong im lặng.
Định kiến khác : xơ gan do rượu là nghiêm trọng nhất trong tất cả các xơ gan. Thật ra không có sự khác nhau lớn giữa các xơ gan. Những nguy cơ gan mất bù (décompensation hépatique) và ung thư gan hiện hữu dầu cho nguyên nhân là gì. “ Một khi xơ gan đã được hình thành, nó sẽ tiếp tục tiến triển một cách độc lập, mặc dầu những yếu tố nguồn gốc của bệnh (rượu, virus, tăng thể trọng…) được xử trí một cách đúng đắn ”, GS Serfaty đã nhấn mạnh như vậy.
Chẩn đoán xơ gan trước khi có triệu chứng càng quan trọng khi y khoa đã đạt được những tiến bộ to lớn trong điều trị các nguyên nhân siêu vi trùng. “ Ta có những thuốc kháng virus mới rất mạnh trong viêm gan B : entecavir (Baraclude) và tenofovir (Viread). Ngoài ra trong trường hợp viêm gan C, sự điều trị bằng tam liệu pháp (trithérapie) từ tháng 9 năm 2011 (interféron, ribarivine và một thuốc kháng virus trực tiếp như télaprévir hay bocéprévir) từ nay cho phép triệt trừ virus trong 70% các trường hợp, GS Serfaty đã xác nhận như vậy. GS Hillon nói thêm rằng “ có lẽ ta sẽ chữa lành hầu hết các trường hợp viêm gan C trong 5 năm đến, như thế ta sẽ thấy ngày càng ít những trường hợp xơ gan do các viêm gan này, với điều kiện không mất thời gian để chẩn đoán chúng ”.
GHÉP GAN
Còn lại là phải giải quyết vấn đề hóc búa của những nguyên nhân khác : cai rượu một người phụ thuộc không phải đơn giản, mặc dầu baclofène mở ra những triển vọng đáng lưu ý. Còn về bệnh viêm gan nhiễm mỡ (stéatohépatite), có nhiều loại thuốc khả dĩ tác động đang được nghiên cứu, nhưng chỉ khả dụng trong vài năm nữa. Trong lúc chờ đợi, sự điều chỉnh tình trạng tăng thể trọng, sự trở lại một sự cân bằng tốt hơn của bệnh đái đường và sự tiếp tục hoạt động vật lý đều đặn là những biện pháp đơn giản, nhưng hữu ích, ở trong tầm tay của tất cả mọi người.
Trong số những người mà các yếu tố nguy cơ đã được điều chỉnh, vài người được đề nghị ghép gan. “ Đó là những bệnh nhân mà hy vọng sống 5 năm dưới 50%, nhất là bởi vì họ đã có những biến chứng trầm trọng, nhưng các chức năng tim và phổi đúng đắn ”, GS Silvain đã kết luận như vậy.
(LE FIGARO 16/1/2012)

2/ XƠ GAN : TỐT HƠN LÀ PHÒNG NGỪA NHỮNG BIẾN CHỨNG TRẦM TRỌNG.
Khi một chẩn đoán xơ gan được đặt ra, một sự theo dõi mỗi 6 tháng tỏ ra hữu ích. Vấn đề là nhiều người lơ là sự theo dõi này và chính vì thế ta còn thấy nhiều biến chứng, mặc dầu vẫn còn bị xem nhẹ.
Thật vậy, khi gan trở nên bị xơ hóa và do đó chai cứng, điều đó cản trở sự tuần hoàn tĩnh mạch tại chỗ. Phía thượng nguồn, áp lực gia tăng trong tĩnh mạch cửa (tĩnh mạch lớn mà máu phát xuất từ ruột đổ vào) : đó là điều ta gọi là tăng áp lực tĩnh mạch cửa (hypertension portale), dẫn đến sự tạo thành các giãn tĩnh mạch (varices) quanh dạ dày, trong dạ dày và trong phần dưới của thực quản.
VỠ CÁC GIÃN TĨNH MẠCH : THEO DÕI, PHÒNG NGỪA, THAT BUI TINH MACH.
“ Vấn đề là những giãn tĩnh mạch này, mỏng manh hơn những huyết quản bình thường, có nguy cơ bị vỡ và xuất huyết, GS Silvain (CHU Poitiers) đã giải thích như vậy. Và áp lực càng gia tăng trong tĩnh mạch cửa, thì nguy cơ vỡ gây xuất huyết này càng gia tăng. Thế mà hiện tượng này không hẳn là hiếm : 1/3 những bệnh nhân bị xơ gan, đặc biệt là xơ gan do rượu, có một tăng áp lực tĩnh mạch cửa.”
Tuy vậy không có một trường hợp tử vong nào, bởi vì có thể phát hiện những giãn tĩnh mạch này và do đó áp dụng những biện pháp phòng ngừa. Để có thể phát hiện chúng đúng lúc, một nội soi dạ dày-tá tràng phải được thực hiện một cách hệ thống trong trường hợp chẩn đoán xơ gan, rồi mỗi hai hoặc ba năm. Nếu các giãn tĩnh mạch có kích thước nhỏ, chỉ cần theo dõi là đủ. Nếu không, cho thuốc phòng ngừa : có thể đó là một bêta-bloquant như propanolol, có tác dụng làm hạ áp lực tĩnh mạch cửa. Cũng có thể buộc các giãn tĩnh mạch (thắt búi phồng tĩnh mạch bằng vòng cao su dưới sự kiểm soát của nội soi) : can thiệp này, được thực hành từ nhiều năm nay, hiện đang diễn biến tốt. Trong 10 năm đến, ta có thể có cả những loại thuốc có khả năng ngăn cản sự tạo thành các giãn tĩnh mạch có nguy cơ cao gây xuất huyết, nhưng các nghiên cứu chỉ còn trong giai đoạn sơ bộ.
“ Khi sự phòng ngừa đã không cho phép tránh xuất huyết do vỡ giãn tĩnh mạch, betabloquant và thắt búi phồng tĩnh mạch bằng vòng cao su được thực hiện phối hợp, GS Silvain đã nói tiếp như vậy. Và nếu điều đó vẫn không đủ, các thầy thuốc X quang hay các thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa, tùy theo các trung tâm, có thể thực hiện một shunt trong gan qua đuờng tĩnh mạch cổ (par voie transjugulaire) (Tips) : một cathéter được đưa xuống tận các tĩnh mạch trên gan (veines sus-hépatiques), rồi vào trong tĩnh mạch cửa xuyên qua gan. Sự đặt một stent (thiết bị có hình dáng chiếc cầu) khi đó cho phép dériver một phần máu và làm giảm tức thời áp lực quá cao trong tĩnh mạch cửa. Can thiệp tế nhị này được thực hiện trong các trung tâm chuyên môn : mỗi năm khoảng 100 người nhận can thiệp này trong bối cảnh cấp cứu và, ngoài cấp cứu, khoảng 800. ”
PHÒNG NGỪA CHỐNG NHIỄM TRÙNG DỊCH CỐ TRƯỚNG.
Biến chứng lớn khác của các trường hợp xơ gan là nhiễm trùng dịch cổ trướng (ascite) : thật vậy, khi máu bị ứ đọng trong tĩnh mạch cửa vì một chướng ngại, một phần đi vào trong bụng và tạo thành dịch cổ trướng. Thế mà các mầm bệnh phát xuất từ ruột đi vào tuần hoàn, rồi vào dịch cổ trướng, khi đó gây một nhiễm trùng nghiêm trọng. 1/3 những trường hợp xơ gan nghiêm trọng bị nhiễm trùng này. Có thể phòng ngừa bằng quinolone (kháng sinh), nhưng trong trường hợp nhiễm trùng được xác nhận, điều trị này được tăng cường.
(LE FIGARO 16/1/2012)

3/ Ở NHỮNG NGƯỜI BÉO PHÌ, SỰ GIẢM CÂN LÀM GIẢM NGUY CƠ UNG THƯ
Ung thư gan là một biến chứng nghiêm trọng của xơ gan. “ Do đó điều trị nguyên nhân của một xơ gan trước khi bệnh này phát ra là điều thiết yếu, BS Serfaty (bệnh viện Saint-Antoine, Paris) đã nhắc lại như vậy. Nguy cơ ung thư gan “ là 3 đến 4% mỗi năm trong trường hợp xơ gan, và tình trạng tăng thể trọng (surpoids) đóng một vai trò gia trọng, đặc biệt là mỡ bụng. Điều đó được giải thích bởi sự kiện là mô mỡ này sản xuất những yếu tố tăng trưởng đóng một vai trò không phải là không đáng kể trong sự tăng trưởng của các tế bào ung thư ”, GS Hillon (CHU Dijon) đã nhấn mạnh như vậy.
Nguy cơ này càng lớn khi đó là một người đàn ông, khi người đó vượt qua ngưỡng 40 và khi đã kế thừa một biến dị di truyền (mutation génétique) đặc biệt (polymorphisme génétique PNPLA3, được tìm thấy ở 2 đến 3% dân chúng) : do sự biến dị này, enzyme có nhiệm vụ làm thoái hóa mỡ trong gan đóng vai trò ít tốt hơn, do đó chúng tích trữ trong gan. Nguy cơ ung thư gan lúc đó được nhân lên gấp đôi. “ Các bệnh nhân đái đường và béo phì có polymorphisme này đứng ở hàng đầu. Điểm tích cực duy nhất : những bệnh nhân này có thể có ít nguy cơ bị những biến chứng mạch máu hơn, có lẽ bởi vì các loại mỡ xấu, vì được tích trữ trong gan, nên không đọng lại trên các huyết quản ”, GS Hillon đã nhấn mạnh như vậy.
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG ĐỊA TRUNG HẢI
Nếu tình trạng tăng thể trọng làm gia tăng nguy cơ ung thư tiêu hoa nói chung, thì ngược lại, một sự mất trọng lượng với sự theo đuổi một chế độ ăn uống Địa trung hải và sự luyện tập thể dục đều đặn (ít nhất 3 giờ mỗi tuần) làm giảm sự gia tăng nguy cơ này.
Những biện pháp vệ sinh- tiết thực càng hữu ích khi ngày nay có ít điều trị có khả năng ngăn cản sự biến đổi xơ gan thành ung thu gan. “ Metformine đúng là có vẻ làm giảm nguy cơ ung thư gan, nhung thuốc chống bệnh đái đường này vhi có thể được kê đơn trong trường hợp bệnh đái đường và bị chống chỉ định trong trường hợp xơ gan với chai gan, điều này hạn chế rất nhiều tầm hữu ích. Còn về tác dụng bảo vệ của các statine, đó còn là một giả thuyết : những công trinh nghiên cứu đang được tiến hành để biết nhiếu hon ”, GS Hillon đã xác nhận như vậy.
(LE FIGARO 16/1/2012)

4/ VIÊM GAN C VẪN KHÔNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN TỐT.
Một báo cáo của KCE cho rằng xét nghiệm phát hiện toàn dân là quá tốn kém.

Những điểm chủ yếu :

– Đại đa số các bệnh nhân bị nhiễm bởi virus của viêm gan C vẫn còn không hay biết mình bị bệnh.
– Vài bệnh nhân sẽ phát triển một ung thư gan hay xơ gan.
– Những loại thuốc mới nhân mười các kết quả điều trị, được dung nạp tốt hơn.
– Những công tác phát hiện cần được cải thiện.

Có nên phát hiện sự hiện diện của virus của viêm gan C trong máu của toàn dân Bỉ ? Câu trả lời của KCE (Centre d’expertise des soins de santé), công bố hôm nay một báo cáo rộng rãi về chủ đề này, là không.
Không phải là vô ích : bởi vì cứ một trăm người Bỉ thì có một nhiễm phải virus này, mà những hậu quả, do xơ gan hay ung thư gan, có thể gây chết người. Nhưng bởi vì những dữ kiện khoa học hiện nay khong cho phép chắc chắn rằng phí tổn quan trọng của chiến dịch phát hiện đại trà sẽ mang lại một sự giảm theo tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong.
Tuy vậy, gần 673.000 trắc nghiệm được thực hiện mỗi năm ở Bỉ, ngoài những nhóm nguy cơ được xác lập bởi Association belge pour l’étude du foie. Thí dụ các thầy thuốc phụ khoa đề nghị trắc nghiệm gan một cách thường quy cho các phụ nữ có thai. “ Đôi khi cùng một người được trắc nghiệm nhiều lần, thật là lãng phí, phải centraliser những kết quả này để mọi thầy thuốc biết được tình trạng huyết thanh (statut sérologique) của bệnh nhân mình, GS Peter Starkel, chuyên khoa về hépatologie clinique (UCL-St-Luc) và đồng tác giả của báo cáo đã giải thích như vậy. Vì không thể điều trị phát hiện đại trà, bản văn khuyến nghị tăng cường công tác phát hiện trên những nhóm ngươi đặc biệt có nguy cơ, như những bệnh nhân đã được phẫu thuật trước tháng 7 năm 1990, thời điểm những người cho máu đã được trắc nghiệm một cách hệ thống để tránh sự lây nhiễm độ truyền máu. Thời hạn giữa nhiễm trùng và sự phát triển một xơ gan có thể vài chục năm, GS Starkel đã giải thích như vậy.
Trên cơ sở những công trình nghien cứu khoa học, báo cáo trái lại dự kiến tiên hành công tác phát hiện ở những người dùng ma túy bằng đường tĩnh mạch, chiếm 80 những trường hợp lây nhiễm mới do dùng chung ống tiêm.
Sau 20 năm, nguy cơ, đối với một bệnh nhân tiêm cho mình chất ma túy, đã mắc phải virus là 80%. Cũng như điều được thực hiện đối với sida, điều trị các bệnh nhân có thể làm giảm sự lan truyền của bệnh. Nhưng các chuyên gia không dự kiến điều dó nếu không có “ một hỗ trỗ xã hội và tâm lý thích ứng ”. Vấn đề : Phải thực hiện những chiến dịch thông tin lớn, thế mà virus của viêm gan C ít được công chúng biết đến, và những chính sách phòng ngừa được tài trợ kém. Thế mà không có vaccin. Cách chống lại tốt nhất, đó là phát hiện tốt hơn và điều trị
(LE SOIR 17/1/2012)

5/ TỦY RĂNG SỬA CHỮA TỦY XƯƠNG.
Tủy răng, phần nằm bên trong nhất của răng, là nơi tập trung các dây thần kinh và mạch máu, phải chăng chứa những tế bào có khả năng một ngày nào đó giúp các nên nhân bị thương tổn tủy sống bước đi trở lại không ? Các nhà nghiên cứu Nhật Bản tin như vậy. Họ đã trích lấy những tế bào gốc hiện diện trong tủy răng người rồi tiêm chúng vào trong tủy sống bị thương tổn của các con chuột. Và họ đã ghi nhận rằng các con vật gặm nhấm đã có thể sử dụng lại một cách đáng kể đôi chân của chúng. Các tế bào gốc tác động bằng cách ức chế sự chết của các tế bào thần kinh và những tế bào nâng đỡ của chúng, và làm dễ sự tái sinh của các dây thần kinh bị cắt đứt. Để áp dụng lên người, các nhà nghiên cứu hy vọng trích những tế bào gốc này từ các chiếc răng cấm. Những liệu pháp tế bào khác đã được trắc nghiệm và đôi khi ngay cả trực tiếp lên các bệnh nhân, nhất là tiêm các tế bào gốc trích từ niêm mạc mũi. Nhưng hiện nay các kết quả đã không bao giờ đạt được mức độ mong chờ.
(SCIENCE ET VIE 2/2012)

6/ THÀNH CÔNG GHÉP CÁC TẾ BÀO GỐC PHÔI THAI TRONG MẮT.
Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ vượt qua một bước đầy hứa hẹn trong việc điều trị chứng mù mắt do sự thoái hóa điểm vàng (dégénérescence maculaire).
OPHTALMOLOGIE. Mặc dầu chỉ là một chặng đầu tiên trên con đường hướng về sự chữa lành, nhưng dầu sao đó cũng là một thành công ngoạn mục.Thật vậy, một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ vừa cải thiện, một cách khiêm tốn, thị giác của hai bệnh nhân đã hầu như bị đánh mất do một sự thoái hóa điểm vàng, nghĩa là một sự phá hủy của vùng võng mạch chịu trách nhiệm về thị giác trung ương. Các thầy thuốc chủ yếu đã chứng minh rằng có thể ghép những tế bào gốc phôi thai (cellules souches embryonnaires) vào trong mắt, bằng cách tiêm chúng khá sâu vào trong bề dày của võng mạc.
Bệnh nhân đầu tiên được hưởng tiến bộ y khoa này, được công bố hôm qua trên site Internet của tạp chí The Lancet, là một bà già 70 tuổi bị “ thể khô ” (forme sèche) của bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DLMA : dégénérescence maculaire liée à l’âge), cũng là thể thường xảy ra nhất. Thể bệnh này được đặc trưng bởi một sự biến mất chậm nhưng không hồi phục được của thị giác, trái với “ thể ướt ” (forme humide), hiếm hơn nhiều, trong đó sự mất thị giác xảy ra nhanh. Có được một sự cải thiện trong loại bệnh DLMA “ thể khô ” càng quan trọng khi hiện nay ta không có điều trị hiệu quả, trái với thể “ ướt ”. Đối với DLMA thể ướt, các thuốc chống sinh mạch máu (traitements antiangiogéniques) được tiêm trực tiếp vào trong mắt đã cách mạng hóa sự điều trị trong những năm qua. Ở Pháp, ta ước tính 1 triệu người bị bệnh DLMA. Trong 85% các trường hợp đó là một “ thể khô ”.
“ Ngày này chúng ta rất bó tay đứng trước thể khô, buộc phải chứng kiến thị giác của bệnh nhân suy sụp dần, BS François Malbel, thầy thuốc nhãn khoa thuộc Clinique Ambroise-Paré de Lille đã xác nhận như vậy. Sau khi từ lâu đã là mục tiêu số 1 bởi vì bệnh tiến triển nhanh, thể ướt, mà chúng ta đã có các loại thuốc điều trị, từ nay được thay thế bởi thể khô, thường xảy ra hơn nhiều nhưng chúng ta bất lực chống lại nó.”
DMLA chủ yếu xảy ra sau 50 tuổi và nguy cơ không ngừng gia tăng với tuổi tác. Nếu ta soi đáy mắt những người 60 tuổi, ta tìm thấy 10% những thương tổn khởi đầu, 25% ở người 75 tuổi và 50% ở người 85 tuổi. Dĩ nhiên những thương tổn xuất hiện vào lúc 80 tuổi ít đáng quan ngại hơn nhiều so với những thương tổn được tìm thấy ở 55 tuổi, nhất là nếu có tiền căn. Thật vậy sự hiện diện những trường hợp DLMA ở bố mẹ nhân gấp bốn nguy cơ cho con cái. Vậy có một yếu tố di truyền mạnh. Ngoài ra ta có thể tránh thuốc lá, làm tăng hơn gấp 3 nguy cơ và dùng vài biện pháp tiết thực phòng ngừa.
Ngay năm 2001, công trình nghiên cứu Areds (Age Related Disease tudy), được tiến hành ở trên hơn 3.600 bệnh nhân tuổi từ 55 đến 80, đã cho thấy rằng có thể làm giảm 25% nguy cơ tiến triển của DLMA và sự giảm thị lực ở các bệnh nhân ở một giai đoạn sớm của bệnh, nhờ sử dụng hàng ngày một điều trị phối hợp các chất chống oxy hóa với một cocktail các vitamine C và Z, đồng và beta-carotène. Nhưng từ đó, điều trị này bị rút ra khỏi những điều trị được đề nghị, bởi vì ta nhận thấy rằng nó làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi ở những người hút thuốc.
“ CÁC KẾT QUẢ MỞ RA NHỮNG TRIỂN VỌNG TỐT ĐẸP ”
Lợi ích phòng ngừa của điều trị chống oxy hóa lên DMLA đã được xác nhận vào năm 2005 bởi một cuộc điều tra Hòa Lan cho thấy rằng ta giảm 1/3 nguy cơ. Từ đó, các chuyên gia khuyến nghị ăn một các đều đặn các micronutriment có tác dụng chống oxy hóa. Ta tìm thấy chúng có nhiều trong trà, cacao, rượu vang (một cách có mức độ…), noix, đậu nành, trái cây và rau xanh.
Bệnh nhân thứ hai của thử nghiệm Hoa Kỳ bị bệnh Stargardt, một dạng thoái hóa điểm vàng, gây bệnh cho những trẻ trước tuổi 20, nói chung từ 7 đến 12 tuổi. Thường nhất đó là những bệnh di truyền của mắt. Bệnh này gây bệnh theo tỷ lệ một trên 20.000 đến 30.000 người và nhanh chóng dẫn đến mất thị giác trung tâm với thị trường ngoại biên được bảo tồn. Do đó bệnh nhân còn giữ một autonomie nào đó và có thể tự di chuyển một mình.
Đối với BS Malbrel, lợi ích chính của thử nghiệm Hoa Kỳ, mặt khác được sự tham gia của một thầy thuốc nhãn khoa lỗi lạc Pháp đã di cư qua Hoa Kỳ cách nay 10 năm, BS Jean-Pierre Hubschman, là ở sự kiện ghép được dung nạp tốt bởi các bệnh nhân: “ Mục đích của công trình này trước hết là kiểm tra sự an toàn và độ dung nạp của các ghép tế bào trong võng mạc. Với quan điểm này, các kết quả mở ra những triễn vọng tốt đẹp.” để cải thiện thị giác, những kết quả chỉ là khiêm tốn và giới hạn ở hai bệnh nhân. Quá ít để kết luận, nhưng cánh cửa rõ ràng đã mở cho những thử nghiệm mới.
(LE FIGARO 24/1/2012)

7/ MỘT VIÊN THUỐC NGỪA THAI KHÔNG HOMONE SẼ CÓ THỂ RA ĐỜI
Tại sao phải tưởng tượng một viên thuốc ngừa thai không hormone trong khi những viên thuốc cổ điển đã rất là có hiệu quả để phong bế sự rụng trứng ? Rất là đơn giản, để tránh cho các phụ nữ những nguy cơ tim mạch và ung thư, có thể do việc sử dụng đều đặn và liên tiếp những kích thích tố tổng hợp. Những tác dụng phụ không có với phương thức được nghiên cứu bởi Jo Hennebold và nhóm nghiên cứu của ông thuộc đại học Oregon (Hoa Kỳ). Ở đây không có vấn đề phong bế sự rụng trứng bằng cách biến đổi những nồng độ kích thích tố của cơ thể trong chu kỳ kinh nguyệt. Đúng hơn là ngăn cản một cách cơ học sự phóng thích của các noãn trong vòi trứng. Vào lúc bình thường, sự phóng noãn này có thể được thực hiện nhờ tác dụng của các métalloprotéinase, những protéine nhỏ chủ chốt chịu trách nhiệm sự vỡ của nang buồng trứng (follicule ovarien) và do đó sự phóng thích noãn. Thế mà, vào lúc các thử nghiệm được tiến hành trên các động vật linh trưởng, các nhà nghiên cứu đã tiêm vào trong các buồng trứng một hợp chất ức chế tác dụng của các protéine này. Kết quả, không có một động vật cái nào được xử lý như thế đã rụng trứng…và không có những tác đúng phụ. Nếu việc chứng minh trên nguyên tắc này mở đường cho một thuốc ngừa thai không hormone, việc cần phải tiêm thuốc vẫn là một hạn chế quan trọng cho sự phát triển của nó. Vì thế, nhóm nghiên cứu hy vọng hiệu chính những cách cho thuốc khác.
(SCIENCE ET VIE 2/2012)

8/ PROTHESE VÀ UNG THƯ VÚ : ĐIỀU CẦN PHẢI BIẾT.
GS David Khayat, trưởng khoa ung thư bệnh viện La Pitié-Salpetrière, nói về các nguy cơ thật sự do các loại implant vú khác nhau.
Hỏi : Hiện nay những loại khác nhau của prothèse vú được cho đặt hợp pháp là những loại nào ?
GS David Khayat : Hai loại được cho phép : những prothèse bằng gel de silicone dùng trong y khoa, và prothèse chứa đầy huyết thanh sinh lý (hoàn toàn trung tính). Những implant này được sử dụng hoặc là trong mục đích làm gia tăng thể tích của vú, hoặc để tái tạo vú sau một phẫu thuật cắt bỏ vì một ung thư.
Hỏi : Các prothèse PIP không hợp pháp chứa một gel công nghiệp, theo ông có thể là một yếu tố làm dễ ung thư vú ?
GS David Khayat : Thành thật mà nói, với tư cách là thầy thuốc chuyên về ung thư, tôi không tin điều đó. Quá trình gây nên một khối u ác tính là phức tạp hơn nhiều điều mà ta tưởng ! Số lượng các trường hợp ung thư vú được thống kê cho đến nay ở những người mang những loại prothèse này (PIP) là dưới những tỷ lệ được quan sát trong dân chúng nói chung. Phải biết rằng cứ 8 hoặc 9 phụ nữ thì có một bị bệnh ung thư vú trong cuộc đời mình.
Hỏi : Các prothèse bằng gel de silicone y khoa đã bị cấm trong nhiều năm. Thế thì ta đã nghi ngờ một mối liên hệ với một nguy cơ gây ung thư ?
GS David Khayat : Thật thế, giới hữu trách y tế Hoa Kỳ (FDA) đã cấm sử dụng những prothèse này từ năm 1992 đến 2006. Và ở Pháp, từ năm 1995 đến 2001. Khi đó ta đã nêu nghi vấn về bản chất và mức độ nghiêm trọng của các biến chứng khả dĩ gây nên bởi những implant chứa gel thuần y khoa này. Đã phải cần đến 10 năm nghiên cứu, được thực hiện trên hơn 50.000 phụ nữ, để chứng minh rằng không có một mối liên hệ nhân quả nào có thể được phát hiện giữa gel này và ung thư vú. Do đó sự cấm chỉ được bãi bỏ.
Hỏi : Trong thời kỳ đó, ta đã sử dụng những implant nào ?
GS David Khayat : Những prothèse chứa huyết thanh sinh lý. Những prothèse này ngay cả khi vỡ cũng không có một nguy cơ gây biến chứng nào. Nhưng với những loại này ta thu những kết quả thẩm mỹ ít tốt hơn.
Hỏi : Những kết luận của các công trình nghiên cứu trong suốt 10 năm dầu sao cũng đã nêu lên vài biến chứng với các prothèse chứa gel y khoa ?
GS David Khayat : Vâng, nhưng không trầm trọng đối với sức khỏe tổng quát. Trong trường hợp vỡ, ta đã ghi nhận những biến chứng tại chỗ của vú thuộc loại granulome, viêm…Ở vài phụ nữ, ta cũng đã chứng thực, vài năm sau khi đặt, sự tạo thành một vỏ cứng quanh prothèse, buộc phải lấy đi. Nhưng một cách đáng ngạc nhiên, những công cuộc điều tra khá lâu này đã phát hiện, ở những phụ nữ được mổ để làm gia tăng thể tích vú, một tỷ lệ tự tử cao hơn nhiều so với dân chúng nói chung. Hơn gấp đôi ! Những thảm cảnh này có lẽ do một tình trạng mỏng manh về tâm lý. Do đó ở vài bệnh nhân cần xử trí trước và sau khi mổ.
Hỏi : Trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của ông, ông đã quan sát thấy một tần số lớn hơn xuất hiện các ung thư vú ở những người mang một prothèse ?
GS David Khayat : Hoàn toàn không. Và tôi chắc chắn rằng điều đó đúng với hầu hết các đồng nghiệp của tôi.
Hỏi : Một implant vú có thể cản trở lúc đọc kết quả của một mammographie ?
GS David Khayat : Vâng. Khi đó thăm dò này ít hiệu năng hơn để phát hiện những ung thư vú nhỏ. Ở các phụ nữ, kỹ thuật chuẩn chắc chắn là IRM..
Hỏi : Ông cho những những lời khuyên theo dõi nào đối với những phụ nữ đã đã được mổ đặt prothèse ?
GS David Khayat : Theo hầu hết các phẫu thuật viên, đối với vài trường hợp, người ta khuyên nên thay prothèse 10 đến 15 năm sau khi đặt. Và, vì lẽ tần số xuất hiện những ung thư vú, các phụ nữ cần được theo dõi đều đặn. Bằng chụp hình ảnh với cộng hưởng từ (IRM) mỗi 2 năm, bắt đầu từ 49 tuổi, và trong trường hợp tiền sử gia đình nặng nề, ngay ở tuổi 40, dĩ nhiên với một thăm khám lâm sàng mỗi năm.
Hỏi : Ngoài các prothèse vú, ông có nghĩ rằng những implant khác được chế tạo một cách không hợp thức có thể có những nguy cơ gây ung thư ?
GS David Khayat : Theo ý tôi, ta phải tăng cường kiểm tra về quy chế của các thiết bị được dùng trong y khoa nói chung. Nghĩa là mọi dụng cụ dùng trong lãnh vực y tế. Cũng như, sau vụ tai tiếng Mediator, ta vừa làm điều đó đối với các dược phẩm trước khi cho phép đưa ra thị trường. Cho đến nay, những thiết bị này (thí dụ kể cả các pompe à perfusion) được đặt dưới sự trách nhiệm của nhà chế tạo. Sau đó sự chứng thực (certification) đươc thực hiện bởi một cơ quan do nhà chế tạo này lựa chọn để xác nhận chất lượng của sản phẩm.
(PARIS MATCH 19/1 – 25/1/2012)

9/ TẠI SAO CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ (IRM) GÂY CHÓNG MẶT
Cho đến nay, ta không biết tại sao và bệnh nhân kêu chóng mặt khi ở gần một máy chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ (IRM : imagerie par résonance magnétique). Những cơn chóng mặt này có lẽ là do từ trường từ máy phát ra, kính thích mê cung (labyrinthe), cơ quan phụ trách cảm giác thăng bằng. Những chuyển động bất thường của ion gây nên bởi IRM ở dịch của mê cung (endolymphe) được truyền lên não bộ dưới dạng những thông tin gây chóng mặt và nhãn chấn (những dao động không tự ý của nhãn cầu). Hiện tượng interférence này được biết dưới tên “ lực Lorentz ”
(SCIENCES ET AVENIR 2/2012)

10/ MỘT PACEMAKER CHO PHÉP TRÁNH NGỪNG THỞ NGẮN LÚC NGỦ
Mang một mặt nạ thông khí (masque de ventilation) vào ban đêm có lẽ chẳng lâu nữa không còn là giải pháp duy nhất trong trường hợp bị chứng ngừng thở ngắn lúc ngủ (apnée du sommeil) trầm trọng. Được trắc nghiệm lần đầu tiên ở Pháp, ở bệnh viện Foch de Suresnes, một máy tạo nhịp (pacemaker) được đặt dưới xương đòn kích thích dây thần kinh lưỡi trong khi ngủ, làm cho lưỡi được đưa ra trước khi thở vào và như thế ngăn cản ngừng thở. Khoảng 10 trung tâm khác ở Hoa Kỳ và châu Âu cũng đã thiết đặt trên hơn 100 bệnh nhân trong năm vừa qua.
(SCIENCE ET VIE 2/2012)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(3/2/2012)

Bài này đã được đăng trong Chuyên đề Y Khoa, Thời sự y học. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s