1/ CẤP CỨU NHỒI MÁU CƠ TIM
NHỮNG ĐIỂM MỐC
MÁU. Nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde), gây thương tổn cơ tim, không phải là nhồi máu duy nhất có thể có trong cơ thể. Thí dụ nhồi máu cũng có thể liên quan đến não bộ hay phổi. Chữ nhồi máu (infarctus) phát xuất từ động từ latin infarcire, “ nhồi nhét, làm đầy ”. Một trong những lần đầu tiên chữ nhồi máu xuất hiện là trong một sách chuyên luận y khoa nằm 1770, được soạn thảo bởi M.Lieutaud, thầy thuốc chuyên về trẻ em đầu tiên của Pháp, và chữ này lại liên hệ đến…các hạch hạnh nhân (amygdales). Người ta đoán rằng Jean-Sébastien Bach chết vì nhồi máu. Và Louis de Funès, sau hai lần nhồi máu chỉ có thể chơi nếu thầy thuốc và xe cứu thương túc trực bên cạnh.CÁC ĐỘNG MẠCH VÀNH. Sự làm việc không ngừng của tim cần phải, như mọi loại cơ khác, được cung cấp “ chất đốt ” (carburant), nghĩa là thức ăn và oxy. Để được như vậy tim phải có rất nhiều mạch (vascularisé). Quả tim, mặc dầu trung bình chỉ chiếm 0,5% khối lượng cơ thể, nhưng lại tiêu thụ khoảng 5% máu được oxy hóa khi đi ra khỏi tim. Để được như vậy, tim có riêng cho mình một hệ phân bố máu nhỏ, được gọi là tuần hoàn mạch vành. Các động mạch vành phải và trái, phát xuất từ động mạch chủ, phân chia thành các nhánh càng ngày càng nhỏ, thường nối kết với nhau để tưới toàn bộ cơ tim.HOẠI TỬ. Sự lưu thông động mạch vành này rất dễ đưa đến sự tạo thành những mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) (cholestérol xấu), có thể gây nên những cục máu đông và do đó làm bít các huyết quản. Và dẫn đến sự hoại tử của cơ tim, những tế bào bị ngạt phải ngừng hoạt động.
NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ. Cũng như những bệnh tim mạch khác, những yếu tố nguy cơ là thuốc lá, cholestérol, cao huyết áp, đái đường, không hoạt động vật lý, chế độ ăn uống mất quân bình…Trong vài trường hợp, mặc dầu được điều trị tốt, một nhồi máu cơ tim có thể gây nên suy tim mãn tính. TIM : NHỮNG CON SỐ NHỮNG GIAI ĐOẠN TRƯỚC CƠN |
Một công trình nghiên cứu được công bố nay mai nhấn mạnh rằng việc nhờ đến Samu, càng nhanh càng tốt, là giải pháp tốt nhất.
CARDIOLOGIE. “ Chúng ta đã thắng trận nhồi máu cơ tim, với một tỷ lệ tử vong tức thời, đã chuyển từ 10% cách nay 20 năm xuống còn 3% hôm nay ” , GS Faied Zannad, thầy thuốc chuyên khoa tim và nhà nghiên cứu của Inserm ở Centre d’investigation clinique Pierre-Drouin (Vandoeuvre-les-Nancy) đã nhấn mạnh như vậy. Ở Pháp, 100.000 người là nạn nhân mỗi năm của nhồi máu cơ tìm, chịu trách nhiệm hơn 10% các trường hợp tử vong nơi người lớn.
Circuit xử trí cấp cứu những bệnh nhân này từ nay được xác lập rõ và, trong đa số các trường hợp, can thiệp đủ nhanh để hạn chế những hậu quả, trước mắt và lâu dài. Các chuyên gia từ nay tập trung vào phòng ngừa nhồi máu cơ tim, sự tái phát của nó và hậu quả thường xảy ra nhất là suy tim.
Nhồi máu cơ tim xảy ra khi một trong các động mạch vành, mang máu đến cơ tim, bị bịt lại sau khi một mảng xơ mỡ bị vỡ, dẫn đến sự tạo thành một cục máu đông. Bị tước mất oxy, các tế bào tim bị thương tổn chết đi sau vài phút, gây nên hoại tử một phần của cơ tim. Bị mất một phần khả năng co bóp, khi đó tim không còn có thể hoạt động một cách bình thường và ngay cả có thể ngừng đập nếu nhồi máu lan rộng hơn 40% bề mặt của nó. Vậy mục tiêu của điều trị nội khoa là khai thông động mạch bị tắc càng nhanh càng tốt để tái lập sự cung cấp oxy và giới hạn sự lan rộng của vùng đang hoại tử.
MỘT CAN THIỆP TỐI ƯU.
Thường nhất, nhồi máu gây nên một cơn đau mạnh “ siết chặt ” ngực và có thể lan lên hàm và/hoặc trong các cánh tay. Cơn đau có thể kèm theo nôn mửa, khó thở, một cảm giác lo âu. Phản xạ tốt nhất, khi đứng trước những dấu hiệu gợi ý này, là gọi 15, trong tất cả các trường hợp, và nếu cần, xoa bóp tim trong khi chờ đợi xe cứu thương. “ Để đào tạo động tác này, và từ nay ta thực hiện ngay cả không cần hà hơi thổi ngạt (bouche-à-bouche), GS Claude Le Feuvre, phó chủ tịch Liên đoàn tim học Pháp đã xác nhận như vậy. Mặt khác, L’observatoire Stent for life ngày mai sẽ trình bày một công trình nghiên cứu trên 200 bệnh nhân trong 5 vùng của nước Pháp, cho thấy rằng tỷ lệ tử vong giảm với số người can thiệp sau lần gọi đầu tiên và dưới một nửa các appel trước hết được hướng về Samu, mà sự xử trí lại hiệu quả nhất và nhanh nhất. Thật vậy từ nay có một circuit trực tiếp, hoàn toàn được tối ưu hóa để can thiệp rất nhanh và làm giảm thời hạn giữa những dấu hiệu đầu tiên của nhồi máu cơ tim và sự khai thông của các động mạch vành, mà không cần phải quá nhiều người can thiệp. Mục tiêu là khai thông động mạch trong 90 phút sau những dấu hiệu đầu tiên nhằm giảm thiểu những hậu quả của nhồi máu.
Kíp y tế được gởi bởi Samu thực hiện ngay một điện tâm đồ để biết những động mạch có hoàn toàn bị bít hay không. Trong trường hợp này, kíp y tế có thể tiêm ngay những thuốc làm tan huyết khối (médicaments thrombolytiques) nhằm làm tan hoàn toàn hay một phần cục máu đông. Nếu phương pháp này không đủ hoặc nếu có thể chuyển rất nhanh bệnh nhân đến một trung tâm can thiệp chuyên khoa, một angioplastie được thực hiện để khai thông một cách cơ học động mạch. Trong trường hợp này, thầy thuốc ngoại khoa can thiệp (chirurgien interventionnel) chuồi một cathéter đến tận cục máu đông (bouchon) làm tắt động mạch vành và hút cục máu đông. Sau đó, trong phần lớn các trường hợp, ông ta sẽ đặt một lò xo bằng kim loại nhỏ, một stent, cho phép nâng đỡ thành bị tổn hại của huyết quản và làm dễ quá trình sửa chữa.
Khi nhồi máu chỉ ảnh hưởng lên một vùng rất giới hạn của tim và nếu được điều trị một cách nhanh chóng, thường bệnh nhân có thể trở lại một cuộc sống hoàn toàn bình thường, với một điều trị bằng thuốc và một vệ sinh đời sống tốt để tránh tái phát. Nghiên cứu cố gắng tìm những giải pháp để sửa chữa trái tim hay ngăn ngừa tiến triển thành suy tim. Tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim sau một tháng là 7% và 13% trong năm đầu tiên, những con số được chia hai trong 10 năm qua. Haute Autorité de santé hy vọng còn làm giảm thêm những con số này nhờ một chương trình tiền phong đang được tiến hành từ năm 2007 và nhằm cải thiện thêm sự điều trị bằng toàn bộ những người chuyên nghiệp của hệ y tế đồng thời tăng cường những cố gắng đào tạo các bệnh nhân.
(LE FIGARO 21/3/2011)
Đọc thêm :
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr126.htm (TSYH số 126, bài số 9)
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr136.htm (TSYH số 136, bài số 9)
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr194.htm (TSYH số 194, bài số 8)
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr210.htm (TSYH số 210, bài số 1)
2/ NHỒI MÁU CƠ TIM : PHÒNG NGỪA CƠN VÀ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ
Mặc dầu tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim đã được giảm một nửa trong thập niên qua, nhưng không phải vì vậy mà nhồi máu đã trở thành một tai biến vô hại. Mặc dầu can thiệp y khoa cấp cứu đã là nhanh và có hiệu quả, nhưng nguy cơ tái phát vẫn cao và những hậu quả của nó về lâu về dài có thể đặc biệt nặng nề.
Sau một nhồi máu cơ tim, bệnh nhân phải dùng nhiều loại thuốc nhằm ngăn ngừa tái phát và kiểm soát vài yếu tố nguy cơ, nhưng những biện pháp vệ sinh đời sống cũng như cần thiết một sự tái thích nghi lúc gắng sức (réadaptation à l’effort) và một sự theo dõi đều đặn lâu dài.
Những yếu tố nguy cơ của nhồi máu cơ tim cũng giống như đối với các bệnh tim mạch : chứng nghiện thuốc lá, cao huyết áp, bệnh đái đường, thiếu hoạt động vật lý, chế độ ăn uống mất quân bình… Tất cả những tham số này sẽ phải được điều chỉnh sau một nhồi máu và nhiều loại thuốc được kê đơn một cách hệ thống sau một nhồi máu, trong một thời gian dài hoặc ngắn : những thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégants plaquettaires), inhibiteur de l’enzyme de conversion và statine.
Những loại thuốc này nhất thiết phải được kèm theo bởi những biện pháp vệ sinh, và nhất là một sự tái thích nghi lúc sự gắng sức. Nếu được liên kết với một giáo dục trị liệu tốt các bệnh nhân, những biện pháp này cho phép tiếp tục lại một hoạt động bình thường và, trong phần lớn các trường hợp, cải thiện chất lượng sống đồng thời làm giảm nguy cơ bị những biến cố tim mạch mới.
SỰ ĐIỀU BIẾN TIM (REMODELAGE CARDIAQUE).
Đối với vài bệnh nhân, mặc dầu một xử trí tối ưu cho phép tránh những tai biến khác, nhưng nhồi máu cơ tim dẫn đến một suy tim về lâu về dài. Thật vậy, nhồi máu cơ tim, trong vài trường hợp, gây nên giãn tâm thất trái của tim nhằm bù lại sự mất tính hiệu quả của cơ tim.
Sự điều biến tim (remodelage cardiaque) này bình thường biến đi dần dần trong những tuần sau tai biến tim. Nếu nó vẫn tồn tại, tim sẽ mất dần tính hiệu quả của nó, không còn đóng vai trò bơm và suy tim xuất hiện dần dần, gây nên khó thỏ và phù. “ Khi đó cần phải hết sức cảnh giác để tránh những hiện tượng mất bù cần nhập viện và những hậu quả thường bi thảm vì lẽ chúng được liên kết với một tỷ lệ tử vong 30% ”, GS Faiez Zannad, người phụ trách mạng Icalor ở Lorraine đã nhấn mạnh như vậy.
Mạng lưới này, nhằm liên lạc những người chuyên nghiệp khác nhau về y tế có liên hệ đối với những bệnh nhân suy tim trong toàn vùng, cho phép phát động một xử trí nhanh chóng những bệnh nhân ngay những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu suy tim : lên cân nhanh, khó thở, phù chân. “ Vào năm 2008, mạng lưới đã cho phép làm giảm 40% số những trường hợp nhập viện vì tim mất bù ”, BS Mustapha Moulla, thầy thuốc đa khoa và phó chủ tịch của réseau đã phấn khởi nói như vậy.
Mạng lưới này cũng đã cho phép tiết kiệm 20.000 euro đối với mỗi trường hợp nhập viện có thể tránh được.
(LE FIGARO 21/3/2011)
3/ PONTAGE : HƯỚNG VỀ MỘT MẪU GHÉP HUYẾT QUẢN LÝ TƯỞNG ?
Phẫu thuật bắt cầu (pontage), mà mục đích là đi vòng quanh một chướng ngại động mạch nhờ một ống (conduit) tự nhiên hay tổng hợp, là một chiến lược ngoại khoa rất hiệu quả.
Bất hạnh thay, các ống tự nhiên (như một tĩnh mạch chi dưới) có thể thiếu hay có thể bị hư hại và không thể sử dụng được. Ngoài ra, việc sử dụng những prothèse tổng hợp chỉ có giá trị đối với những động mạch cỡ lớn (như động mạch chủ, động mạch đùi). Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc tiểu bang North Carolina, dường như đã hiệu chính mẫu ghép lý tưởng từ những tế bào cơ trơn được trích lấy ở thành các động mạch hay các tĩnh mạch của một người vừa mới chết. Những tế bào này, được cấy trong một bioréacteur trên một ống bằng polymère (tương tự với một huyết quản người), tăng sinh và sản xuất mô liên kết, sẽ tạo nên một loại ống huyết quản (tuyau vasculaire). Huyết quản này, trơ trên bình diện miễn dịch học, sau đó sẽ sẵn sàng để sử dụng. Sau một năm nhìn lại, các trắc nghiệm trên các động vật đã cho thấy rằng mẫu ghép huyết quản (greffon vasculaire) có ít nguy cơ bị nhiễm trùng, huyết khối hay tắc trong thời gian ngắn phẫu thuật bắt cầu. Những nghiên cứu trên người sẽ được khởi sự.
(PARIS MATCH 10/3 – 16/3 /2011)
4/ VACCIN CHỐNG H1N1 LÀM GIA TĂNG NHỮNG TRƯỜNG HỢP BỆNH NGỦ RŨ (NARCOLEPSIE).
Các trẻ em Phần Lan, được tiêm chủng chống cúm H1N1, có một nguy cơ gia tăng gấp chín lần phát triển bệnh ngủ rũ (narcolepsie). Vào năm 2010, nước Phần Lan đã ghi nhận thêm 62 trường hợp bệnh ngủ rũ nơi những trẻ em từ 4 đến 19 tuổi, so với 5 đến 14 trường hợp hàng năm giữa năm 2006 và 2009. Theo một báo cáo sơ khởi được công bố bởi Viện y tế Phần Lan mà những kết luận dứt điểm sẽ được công bố vào tháng 8, gần 90% bệnh nhân đã nhận một liều Pandemrix trong 8 tháng trước khi xuất hiện bệnh. “ Hiện giờ, chúng tôi nghĩ rằng vaccin Pandemrix đúng là đã góp phần vào việc làm gia tăng số những trường hợp bệnh ngủ rũ, nhưng nó không phải là nguyên nhân duy nhất ”, BS Hanna Nohynek, người phụ trách chính sách tiêm chủng ở Institut finlandais pour la santé đã giải thích như vậy. Được phát triển bởi phòng bào chế GlaxoSmithKline, vaccin này đã được sử dụng trong 19 nước, trong đó có Pháp, ở đây một mối liên hệ với những trường hợp bệnh ngủ rũ cũng đã được gợi ý mặc dầu đã không được chứng minh. Hướng di truyền cũng đã được thăm dò, nhất là tất cả các bệnh nhân đều mang một gène tố bẩm đối với narcolepsie, chủ yếu phổ biến ở Bắc âu. Và chính ở Phần Lan và Thụy Điển mà người ta đã ghi nhận một sự gia tăng số các trường hợp có khả năng gây nên do sự tiêm chủng chống H1N1.
(SCIENCE ET VIE 4/ 2011)
5/ ARTESUNATE THAY THẾ VĨNH VIỄN QUININE.
Quinine không còn là điều trị lựa chọn trong bệnh sốt rét thể nặng, ở những ngươi trưởng thành cũng như ở trẻ em. Từ nay chính artésunate phải được ưa thích hơn, theo tạp chí Cochrane Library.
David Sinclair, Sarah Donegan và David G. Lalloo của Liverpool School of Tropical Medicine ở Anh đã nghiên cứu những dữ kiện phát xuất từ nhiều thử nghiệm lâm sàng, so sánh artésunate với quinine trong khung cảnh điều trị một bệnh sốt rét thể nặng. Những công trình nghiên cứu này, được thực hiện ở châu Phi và châu Á, trên toàn bộ 1.664 người trưởng thành và 5.765 trẻ em. Các kết qua của sự duyệt xét này rõ rệt tán trợ cho việc sử dụng artésunate : loại thuốc này ít tác dụng phụ hơn nhiều và ngoài ra cho phép làm giảm một cách rõ rệt tỷ lệ tử vong nơi người lớn và trẻ em, lần lượt 39% và 24%. Nơi người lớn, những trường hợp tử vong gây nên bởi bệnh sốt rét thể nặng chuyển từ 241 trường hợp đối với 1.000 bệnh nhân khi sử dụng quinine xuống còn 147 với artésunate ; ở trẻ em, từ 108 đối với 1000 bệnh nhân với quinine xuống còn 83 với artésunate.
Ta nói là sốt rét thể nặng khi bệnh làm thương tổn các chức năng sinh tử. Ngoài ra sốt rét thể nặng được liên kết với một nguy cơ rất gia tăng bị sốt rét thể não (malaria cérébrale), biến chứng này có thể là nguyên nhân của một phế tật lâu dài. Mỗi năm hơn một triệu người chết vì thể bệnh này, phần lớn ở châu Phi.
Peter Olumese, thuộc Global Malaria Programme của OMS, hoàn toàn đồng ý với kết luận của những người Anh : artésunate bằng đường tĩnh mạch phải được ưu tiên, nơi người lớn cũng như trẻ em, và điều này cho toàn thế giới.
Ngay năm 2006, OMS đã thích ứng những khuyến nghị theo chiều hướng này để điều trị những người lớn. Tuy nhiên OMS còn do dự hơn đối với các trẻ em, vì lẽ số những phản ứng phụ lớn nhất được chứng thực trong các bệnh nhân nhi đồng sau khi điều trị với thuốc chống sốt rét. Nhưng những tác dụng này sau cùng chỉ có tính chất tạm thời và được bù lại bởi sự gia tăng quan trọng tỷ lệ sống sót. Nói một cách khác, tỷ suất các lợi ích/các nguy cơ hoàn toàn nghiêng về phía artésunate. Quinine, thuốc cũ có hiệu quả tốt chống bệnh sốt rét, giờ đây đã hết thời với tư cách là thuốc được chọn đầu tiên.
Những kết quả đã được trình bày trong ấn bản số 3 của Cochrane Database of Systematic Review của năm nay, được xem như là golden standard của những tài liệu xuất bản dành cho những công trình nghiên cứu.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 25/3/2011
Đọc thêm :
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr202.htm (TSYH số 202, bài số 8)
6/ CÀ PHÊ : TỐT HAY XẤU CHO SỨC KHOẺ ?
Các tác dụng của caféine lên não bộ, lên tim và lên vài căn bệnh càng ngày càng được biết tốt hơn.
ALIMENTATION. Cuộc tranh luận về những đặc tính của caféine và cà phê vẫn đều đều được tiếp nối, theo nhịp điệu (nhiều) của các tài liệu xuất bản khoa học. Tài liệu xuất bản mới nhất, được đăng tải trong the Journal of Pediatrics, lo ngại về sự tiêu thụ mạnh cà phê ở trẻ em và những tác dụng làm xáo trộn giấc ngủ của nó.
Công trình nghiên cứu này nhấn mạnh rằng các trẻ em Hoa Kỳ hấp thụ một lượng đáng kể caféine qua coca và soda. Trong số 228 trẻ em tuổi từ 5 đến 12, thì 75% tiêu thụ mỗi ngày trung bình 52 mg ở các trẻ 5-7 tuổi, hoặc tương đương với một tách trà. Sự tiêu thụ trung bình lên đến 109 mg mỗi ngày đối với những trẻ 8-12 tuổi, hoặc tương đương với một tách cà phê. Ta có thể xem rằng các trẻ em Mỹ tiêu thụ nhiều hơn so với những trẻ em người Pháp. Nhưng, vì không có những chuẩn mực quốc gia, nên tốt hơn là nên tham chiếu nhưng liều tối đa được chỉ rõ bởi bộ Y tế Canada : không được hơn 45mg/ngày trước 7 tuổi, không hơn 85 mg/ngày trước 12 tuổi.
Về mặt hóa học, caféine là một méthylxanthine, như théophylline của trà và théobromine của chocolat… Cấu trúc phân tử này giải thích những tác dụng giãn phế quản (bronchodilatateur) của nó, đáng lưu ý đối với những bệnh nhân hen phế quản. Và nhất là những tính chất làm thức tỉnh và kích thích tinh thần (vertus éveillantes et psychostimulantes), được ca ngợi bởi những người tiêu thụ. Ít nhất là bởi những người nhạy cảm với nó, bởi vì chúng ta không bình đẳng trước caféine. Nơi vài người, caféine có tác dụng kích thích (effet stimulant), nơi những người khác có tác dụng sinh âu lo (action anxiogène). Nguyên nhân là vài enzyme của cơ thể thay đổi về mặt di truyền và ảnh hưởng lên chuyển hóa của nó. “ Caféine, có những tác dụng sinh âu lo (anxiogène), được biến đổi bởi một enzyme của gan thành paraxanthine, một chất chuyển hóa, lại có tác dụng giải âu (anxiolytique), GS Jeam Costantin, pharmacologue thuộc CHU de Rouen, đã giải thích như vậy. Enzyme có tác dụng giải âu là rất hoạt động nơi những người chủ yếu cảm thấy những hiệu quả kích thích tâm thần của caféine. Điều này ít hơn nhiều nơi những người khác, chủ yếu rất nhạy cảm với những tác dụng gây lo âu của cà phê. ” Không có gì ngạc nhiên, người thích uống cà phê thuộc vào nhóm thứ nhất.
Người ta cũng biết rằng caféine hơi làm gia tăng nhịp tim, vì vậy những người có tim nhịp nhanh được khuyên không nên uống. Caféine cũng làm hơi tăng huyết áp. “ Nhưng những dữ kiện dịch tễ học khá mâu thuẫn, nhà dịch tễ học Tobias Kurth (Inserm U708, Paris) đã đánh giá như vậy. Chúng ta cần những công trình nghiên cứu chính xác hơn để hiểu những tác dụng tim mạch của caféine. ”
NHỮNG THỬ NGHIỆM TRÊN NGƯỜI.
Những lợi ích khác được gán cho caféine với liều thông thường (khoảng 400 mg/ngày) không còn nghi ngờ gì nữa. Thí dụ tác dụng bảo vệ chống lại bệnh Parkinson. “ Tác dụng này là do sự phong bế các thụ thể A2a của adénosine nằm trên các neurone dopaminergique, vốn bị phá hủy bởi căn bệnh ”, Astrid Nehlig, nhà chuyên khoa hóa-thần kinh (neurochimiste) đã xác nhận như vậy. Nhưng ở đây cũng vậy, các đặc điểm không phổ quát, ít nhất nơi các phụ nữ. “ Tác dụng phòng ngừa này chỉ liên quan đến những phụ nữ không được điều trị bằng hormone thay thế (THS : traitement hormonal substitutif) hay uống ít cà phê, những phụ nữ được điều trị bởi hormone thay thế lại có một nguy cơ gia tăng ”, nhà nghiên cứu đã nêu lên như vậy.
Những tác dụng liên quan đến sự sa sút trí tuệ (déclin cognitif) và bệnh Alzheimer trái lại vẫn cần được xác nhận. “ Ở não bộ, caféine gây nên, trên mô hình động vật, một sự giảm các mảng amyloide (các mảng hiện diện trong não bộ của các bệnh nhân Alzheimer), và làm giảm những tác dụng làm mất trí nhớ (effet amnésique) của căn bệnh này, David Blum, nhà sinh học thần kinh (neurobiologiste) (Inserm U837, Lille) đã giải thích như vậy. Bây giờ mục tiêu của chúng ta là hướng về một thử nghiệm nơi người, bằng cách kết hợp các chất chỉ dấu sinh học của bệnh Alzheimer và chụp hình ảnh. ” Mối liên hệ giữa cà phê và ung thư cũng được bàn bạc. “ Hơn 500 công trình nghiên cứu đã được dành cho chủ đề này mà không có một liên hệ nào đã có thể được chứng tỏ ”, Astrid Nehlig đã chỉ rõ như vậy. Nguy cơ giả định về ung thư tụy tạng và bàng quang do quá trình rang (torréfaction) cà phê dường như được loại bỏ. Nhưng tính chất quá đa dạng và giá trị khoa học thay đổi của các công trình nghiên cứu làm không thể đưa ra bất cứ kết luận nào. Vậy cứ tiếp tục lạc thú với cà phê ngon. Một lạc thú sẽ còn được đa dạng hóa, vì lẽ, sau kẹo cao su có pha caféine của Mỹ, những người Thụy Sĩ vừa phát minh …xà phòng caféine !
(LE FIGARO 7/2/2011)
Đọc thêm : Thông tin về cà phê
http://www.nhipcauykhoa.net/diendan/index.php?showtopic=18342&st=0&p=53128&#entry53128
7/ NƠI PHỤ NỮ, UỐNG HƠN MỘT TÁCH CÀ PHÊ MỖI NGÀY LÀM GIẢM NGUY CƠ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO.
Nơi phụ nữ, uống hơn một tách cà phê mỗi ngày được liên kết với một sự giảm nguy cơ bị tai biến mạch máu não từ 22% đến 25% , so với một sự tiêu thụ ít hơn.
Sự tiêu thụ cà phê phái chẳng được liên kết với nguy cơ tai biến mạch máu não ? Để biết điều đó một cách chính xác, Susanna Larsson của Karolinska Instritute ở Stockholm (Thụy Điển) và các đồng nghiệp đã theo dõi 34.670 phụ nữ (tuổi từ 49 đến 83) trong công trình nghiên cứu Swedish Mammography Cohort. Vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu không có ai có tiền sử về tim mạch hay ung thư cả.
Trong suốt thời gian theo dõi 10 năm, 1.680 tai biến mạch máu nào đã xảy ra (giữa tháng giêng 1998 và tháng 12/ 2008), trong đó 1.310 nhồi máu não/tai biến mạch máu não do thiếu máu cục bộ, 154 xuất huyết não, 79 xuất huyết màng não (dưới màng nhện) và 137 tai biến mạch máu não không được xác định rõ.
Sau khi thực hiện điều chỉnh đối với những yếu tố nguy cơ khác, sự tiêu thụ cà phê được liên kết với một sự giảm đáng kể nguy cơ toàn bộ của tai biến mạch máu não, tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời và xuất huyết não, nhưng không làm giảm xuất huyết màng não. Như thế, những người tham dự, tuyên bố đã uống 1-2 tách cà phê mỗi ngày, trong 3-4 ngày hay 5 tách hoặc hơn mỗi ngày, có nguy cơ bị tai biến mạch máu não giảm từ 22% đến 25%, so với những người uống dưới một tách cà phê.
Nhũng dị biệt này đã vẫn không bị biến đổi bởi tình trạng nghiện thuốc lá, chỉ số trọng lượng cơ thể (BMI), các tiền sử đái đường, cao huyết áp hay tiêu thụ rượu, điều này minh họa sự kiện là cà phê không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nguy cơ tim mạch đã được biết đến.
“ Nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã quan sát một mối liên hệ nghịch giữa sự tiêu thụ cà phê và nguy cơ bị tai biến mạch máu não nơi những người hút thuốc nam giới Phần lan, Susana Larsson đã giải thích như vậy. Vậy chúng tôi đã muốn đánh giá tình hình này nơi các phụ nữ. ”
Bảng câu hỏi về chế độ ăn uống không phân biệt giữa những người uống cà phê có chất caféine hay không, nhưng những người Thụy Điển uống rất ít cà phê không có caféine (café décaféiné), các tác giả còn xác nhận như thế và cho rằng uống cà phê có lẽ làm giảm nguy cơ bị tai biến mạch máu não do làm giảm tỷ lệ viêm dưới lâm sàng (inflammation infraclinique), do làm giảm stress và do làm nhạy cảm đối với insuline.
KHÔNG SỢ.
“ Vài phụ nữ tránh uống cà phê bởi vì họ nghĩ rằng như thế không lành mạnh. Thế mà, càng ngày càng có nhiều chứng cớ chỉ rõ rằng một sự tiêu thụ cà phê có mức độ có thể làm giảm những nguy cơ bị vài căn bệnh như đái đường, ung thư gan và có thể tai biến mạch máu não. Chúng tôi đã chứng minh rằng uống ít cà phê hoặc không uống chút nào được liên kết với một nguy cơ gia tăng bị tai biến mạch máu não và mặc dầu còn quá sớm để biến đổi những thói quen về tiêu thụ cà phê, những công trình nghiên cứu của chúng tôi hẳn làm nguôi bớt các mối e ngại của vài phụ nữ ”, các nhà nghiên cứu đã kết luận như vậy.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 18/3/2011)
8/ SIDA : MỘT VACCIN ĐẦY HỨA HẸN NHẰM VÀO CÁC NIÊM MẠC
Morgane Bomsel, giám đốc nghiên cứu của CNRS, bình luận những kết quả đáng phấn khởi của phương pháp mới này nơi phụ nữ.
Hỏi : Những bất tiện của liệu pháp ba loại thuốc (trithérapie), tác dụng phong bế sự tăng sinh của HIV, là gì ?
Morgane Bomsel: Trước hết đó là sự gò bó phải dùng thuốc mỗi ngày mà điều trị đòi hỏi. Những người huyết thanh dương tính biết rằng trong trường hợp ngừng thuốc, bệnh, tạm thời bị dập tắt, sẽ xuất hiện trở lại. Bất tiện khác : sự xuất hiện những tác dụng phụ như một sự xê dịch của các khối mỡ (đặc biệt là ở mặt), vài vấn đề về gan… Cần phải nhắc lại rằng hiện nay ở Pháp khoảng 150.000 người bị nhiễm bởi virus sida.
Hỏi : Do đâu cần phải hiệu chính một vaccin phòng ngừa. Cho mãi đến nay những thử nghiệm là gì ?
Morgane Bomsel : Để hiểu cách tác dụng của những lần thử nghiệm trước, cần nhắc lại cau trúc của virus HIV. Virus được bao quanh bởi một màng bảo vệ bao gồm một protéine, yếu tố duy nhất có thể tiếp cận được ở bề mặt của virus. Đó là chìa khóa cho phép virus đi vào trong một tế bào lành mạnh. Do đó chính protéine này mà ta tìm cách nhắm vào bằng một vaccin. Protéine này được cấu tạo bởi hai đơn vị. Một được gọi là “ G 120 ”, rất hòa tan, dễ bị tác động nhất. Nhưng GP 120 biến dị thường trực. Điều này giải thích, có lẽ một phần, những thất bại của các vaccin trong cố gắng vô hiệu hóa nó. Đơn vị kia, được gọi là “ GP 41 ”, có ưu điểm là không bị biên hóa một cách liên tục.
Hỏi : Tính độc đáo của vaccin mới này là gì ?
Morgane Bomsel : Vì virus gây bệnh sida là một nhiễm trùng lây nhiễm bằng đường sinh dục (hơn 90% các trường hợp), nên những tế bào đầu tiên mà HIV gặp đều nằm ở niêm mạc sinh dục. Chúng tôi đã tìm cách phong bế virus ngay tức khắc ở lối vào này, trước khi các réservoir được tạo thành.
Morgane Bomsel : Khi virus được phát hiện trong máu, thì khi đó các réservoir tế bào đã được tạo thành, trong đó các virus (không thể phát hiện được trong các xét nghiệm) sẽ trú ẩn, nhưng vào bất cứ lúc nào đều có thể được phóng thích để tiếp tục gây nhiễm.
Hỏi : Cách tác dụng của phương pháp mới nhất này là gì ?
Morgane Bomsel : Trong khi các vaccin trước đây tìm cách tạo một đáp ứng miễn dịch trong máu, như thế tác dụng quá muộn, vaccin của chúng tôi gây nên một phản ứng phòng vệ đặc hiệu tại chỗ, ở niêm mạc, nhờ sự kết hợp của các tiêm chủng qua mũi và qua cơ. Ngoài ra ta không còn nhắm vào đơn vị GP 120 của protéine nữa, nhưng vào đơn vị kia, GP 41, cũng tham gia vào quá trình nhiễm trùng và có ưu điểm to lớn là không biến dị.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu nào đã được thực hiện ?
Morgane Bomsel : Những công trình nghiên cứu đầu tiên đã được thực hiện bởi nhóm của chúng tôi thuộc Viện Cochin (cùng với công ty Mymetics) nơi những động vật linh trưởng có hệ miễn dịch tương cận nhất với người. Trước hết chúng tôi đã quyết định tiêm chủng những con cái bởi vì chúng dễ bị thương tổn hơn, không thể tự bảo vệ một cách dễ dàng. 5 con khỉ cái đã được tiêm chủng và 6 con khác đã nhận một placebo. Sau đó chúng được gây nhiễm bằng những mũi tiêm vào âm đạo. 6 tháng sau, chúng tôi đã chứng thực rằng những con khỉ cái được tiêm chủng đã được bảo vệ, trong khi 6 con khỉ kia đã trở nên huyết thanh dương tính.
Hỏi : Sau những kết quả đáng phấn khởi này, khi nào ta đã bắt đầu những thử nghiệm trên người ?
Morgane Bomsel : Những thử nghiệm đầu tiên này đã được khởi sự năm 2010 ở Bỉ nơi 23 bệnh nhân. Vào giai đoạn lâm sàng đầu tiên này, chính độc tính của vaccin, lúc sử dụng cùng protocole, trước hết đã được khảo sát, cũng như khả năng của cơ thể con người đáp ứng tại chỗ với vaccin mới này (bằng cách “ chế tạo ” nhưng vũ khí đặc hiệu, những kháng thể có khả năng chống lại virus). Chúng tôi sẽ có các kết quả vào tháng tới. Nếu các kết quả này, như chúng tôi đã dự kiến, tỏ ra thỏa mãn, phải bắt đầu một công trình nghiên cứu mới trên một tập hợp người tham dự lớn hơn đã có một nguy cơ (protocole cổ điển của tất cả các thử nghiệm vaccin)
(PARIS MATCH 17/3-23/3/2011)
9/ VACCIN CHỐNG HIV : NHỮNG CHƯỚNG NGẠI NHƯNG MỘT HY VỌNG THẬT SỰ
Professeur Yves Levy
Chef du service d’immunologie clinique
Hôpital Henri-Mondor, Créteil
Professeur d’immunologie clinique
Université Paris-Est Créteil.
Từ khi khám phá ra virus HIV, 60 triệu người đã bị nhiễm bởi virus và sida đã gây tử vong cho hơn 25 triệu người trên thế giới. Dịch bệnh tiến triển với nhịp độ 7000 lây nhiễm mỗi ngày và vẫn gây quan ngại ở châu Phi, châu Á và Đông Âu. Những hậu quả của nó trên bình diện con người, kinh tế và xã hội, kết hợp với những hạn chế trong sự tiếp cận với điều trị ở các nước phương nam, làm cho công tác nghiên cứu một vaccin phòng ngừa trở thành ưu tiên. Chỉ cần một vaccin hiệu quả, an toàn, có phổ rộng và có thể tiếp cận được, sẽ cho phép kiểm soát được dịch bệnh.
Những mối thách thức do virus HIV tạo nên quả là có một không hai. Vài giờ sau khi bị lây nhiễm, nhiễm trùng hình thành một cách không cứu chữa được. Tính biến thiên di truyền khác thường của HIV cho phép nó thoát khỏi các phòng ngự miễn dịch của cơ thể bằng cách đánh lừa và phá hủy chúng dần dần.Một thí dụ : trong cùng buổi chiều hai người bị lây nhiễm bởi cùng một partenaire có thể bị nhiễm bởi hai virus hoàn toàn khác nhau. Trái với vaccin học cổ điển, có khuynh hướng bắt chước những phòng ngự tự nhiên, cho phép chữa lành một bệnh nhiễm trùng, chúng ta hoàn toàn không biết các cơ chế bảo vệ chống lại HIV bởi vì không một cá thể nào đã loại bỏ được virus này một khi bị nhiễm trùng.
Đồng thời, trong những năm qua những tiến bộ đạt được là quan trọng. Ta hiểu tốt hơn những biến cố liên kết với virus và ký chủ trong những giờ đầu của nhiễm trùng. Ta đã giải mã được những đặc điểm miễn dịch và di truyền của một số bệnh nhân hiếm hoi, mặc dầu bị nhiễm trùng, nhưng lại có khả năng kiểm soát vi khuẩn một cách tự nhiên mà không cần phải dùng thuốc. Mới đây những mảnh HIV ít khả dĩ biến dị hơn đã được nhận diện, như thế mở những đường hướng mới cho việc nghiên cứu vaccin.
MỘT THỬ NGHIỆM Ở THÁI LAN
Sau 25 năm thất bại, một thử nghiệm được thực hiện nơi 16.000 người tình nguyện ở Thái lan đã cho thấy rằng một “ ứng viên vaccin ” có khả năng làm giảm 30% số những trường hợp bị nhiễm trùng nơi những người được tiêm chủng. Mặc dầu cơ chế bảo vệ vẫn còn hoàn toàn bí ẩn, nhưng kết quả khiêm tốn này gợi ý rằng sự mắc phải HIV có thể được phong bế. Khả năng có một vaccin trở thành hiện thực bởi vì một sự cải thiện tỷ lệ bảo vệ khoảng 50% có thể có một tác động thật sự lên dịch bệnh. Cần đẩy nhanh công tác nghiên cứu để hiểu những cơ chế của sự bảo vệ này và cải thiện tính hiệu quả của một vaccin.
Bây giờ đây, chính cộng đồng khoa học và những người quyết định chính trị, cùng với các cộng đồng các bệnh nhân, những nhà nghiên cứu của các nước liên hệ, phải biến đổi những kết quả khiêm tốn này thành sự thành công của ngày mai. Phải trắc nghiệm với quy mô lớn nhiều “ candidat vaccin ”, bởi vì không có gì tiên đoán được tính hiệu quả của chúng. Cũng vậy, không ai có thể nói một vaccin có thể hiệu quả hay không nơi những người có tuổi tác, thể địa di truyền hay/và môi trường khác nhau.
Chúng ta phải lôi kéo những nhà nghiên cứu trẻ tuổi vào lãnh vực khó khăn này, tiếp tục sự cộng tác thật sự với công nghiệp sẽ phát triển những vaccin này. Phương pháp thực dụng này là đối tượng của một sự nhất trí rộng rãi của cộng đồng khoa học. Những mục tiêu để đạt được sẽ phải tốn kém. Những phương tiện tài chánh và cấu trúc cần thiết hôm nay không ở mức của đặt cuộc, đặc biệt là ở Pháp.
Sự nghiên cứu một vaccin chống lại HIV là một enjeu y tế công cộng và một cuộc phiêu lưu khoa học đặc biệt. Một vaccin ngay cả chỉ có tác dụng phòng ngừa một phần, được liên kết với một loạt những công cụ phòng ngừa, sẽ cho phép kiềm chế dịch bệnh. Điều đó vẫn là một ưu tiên và là một trong những thách thức quan trọng mà chúng ta sẽ phải vượt qua.
(LE FIGARO 6/7/2010)
Đọc thêm :
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr144.htm (TSYH số 144, bài số 1)
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr184.htm (TSYH số 184, bài số 3)
10/ ĐƯỢC SỬ DỤNG SAU MỘT TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO, PROZAC TỎ RA CÓ LỢI.
Một điều trị hàng ngày với 20 mg Prozac, được bắt đầu trong 10 ngày sau một tai biến mạch máu não và được theo đuổi trong 3 tháng, cho phép gia tăng sự phục hồi vận động. Đó là điều được chứng tỏ bởi một công trình nghiên cứu lâm sàng được thực hiện trên 118 bệnh nhân do nhóm nghiên cứu của François Chollet thuộc CHU de Toulouse. “ Trên một thang đo khả năng vận động từ zéro đến 100, những bệnh nhân dùng placebo đã đạt được 20 điểm ; những bệnh nhân được điều trị với Prozac đạt được 34 điểm ”, người thầy thuốc phụ trách công trình đã xác nhận như vậy. Mặc dầu không loại bỏ một tác dụng khả dĩ lên động cơ của các bệnh nhân muốn phục hồi chức năng nhanh hơn, nhà nghiên cứu nghĩ rằng fluoxétine, hoạt chất của thuốc chống trầm cảm này, đã có một tác động trực tiếp lên tính dẻo của não bộ (plasticité cérébrale) “ Sau một tai biến mạch máu não, não bộ tự tái tổ chức một cách ngẫu nhiên và dường như fluoxétine làm dễ sự tái tổ chức này, François Chollet đã giải thích như vậy. Trong khi điều trị duy nhất là làm tan cục máu đông trong những giờ sau tai biến mạch máu não, công trình nghiên cứu của chúng tôi mở đường cho một phương thức điều trị khác, phương thức tế bào thần kinh (approche neuronale), chứ không chỉ đối với mạch máu (approche vasculaire) mà thôi. ” Vấn đề là còn phải xem những tác dụng của Prozac sẽ được nhận thấy hay khong trên những năng lực khác bị ảnh hưởng bởi tai biến mạch máu não, thí dụ ngôn ngữ. Và xem những tiến bộ đạt được có lâu dài hay không.
(SCIENCE ET VIE 3/2011)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(28/3/2011)