1/ CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ?
NHỮNG ĐIỂM MỐC
MỠ. Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole- (“mật ”) và stereos (“ rắn”), có tên này là do nó đã được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mật vào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de la Salle. HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, mà công trình nghiên cứu đã mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ) tuyệt đối cần thiết cho cơ thể. Cholestérol là một trong những chất ciment thiết yếu của các màng tế bào và cũng là chất cơ bản của nhiều vitamine và hormone. Và nó không phải là chất mỡ duy nhất lưu thông trong máu của chúng ta. Sự thặng dư của nó có thể tỏ ra có hại. Nhưng tính độc hại của cholestérol là do các chất chuyên chở (véhicule) hơn là do chính bản thân cholestérol. HDL VA LDL. Đó là những chữ viết tắt của các “ công ty vận tải ” của cholestérol trong máu. Không có những protéine này, cholestérol, vì không tan trong nước, nên không thể đi vào trong những tế bào để được sử dụng ở đó. LDL có nhiệm vụ giao cholestérol vào trong các cơ quan và các mô từ gan và ruột, là những nơi nó được sản xuất. HDL quét sạch cholestréol dư thừa và mang nó đến gan để làm thoái biến. CÂN BẰNG. Khi sự quân bình giữa hai cách này, phân bố và loại bỏ, bị phá vỡ, các chất ứ đọng có thể được tạo thành bên trong các thành động mạch. Mối liên hệ giữa nồng độ cholestérol trong máu và sự gia tăng nguy cơ tim-mạch dường như ngày nay được xác lập rõ. STATINES. Một trong những tranh cãi hiện nay có liên quan đến vai trò của các thuốc được gọi là statines. Những chất làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant) này được sử dụng để làm giảm nồng độ cholestérol trong máu. Việc sử dụng và các chỉ định không tạo được sự nhất trí. |
Có thể tác động một cách hiệu quả để phòng ngừa những tai biến tim-mạch.
ARTERES. Sự thặng dư cholestérol là nguyên nhân đầu tiên của chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), chịu trách nhiệm mỗi năm ở Pháp 200.000 bệnh tim do thiếu máu cục bộ (nhồi máu cơ tim hay các hội chứng động mạch vành) và 80.000 tai biến mạch máu não. Cần thiết cho cơ thể, cholestérol được vận chuyển trong máu dưới dạng lipoprotéine phức hợp : LDL, hay “ cholestérol xấu ”, có nhiệm vụ vận chuyển cholestérol từ gan đến các mô, và HDL, hay “ cholestréol tốt ”, có nhiệm vụ mang cholestérol từ các mô về gan, ở đây cholestérol được dùng trở lại hay bị loại bỏ. Khí quá mức, LDL đọng lại trên các động mạch, trong khi HDL tăng cao lại bảo vệ chống lại chứng xơ mỡ động mạch. Các phần tử khác, VLDL, vận chuyển các triglycéride nhưng cũng chuyên chở một ít cholestérol.
LDL là tác nhân quan trọng của sự tạo thành các mảng xơ mỡ (plaque d’athérome), một quá trình liên tục suốt cả cuộc đời. “ Những động mạch của những người trẻ tuổi chết vào năm 20 hay 30 tuổi đã cho thấy những đường rạch mỡ (stries graisseuses). Trừ phi theo chế độ ăn chay một cách nghiêm ngặt ngay tuổi ấu thơ, dường như khó thoát được các đường rạch mỡ này ”, GS Jean Ferrières, thầy thuốc chuyên khoa tim, CHU de Toulouse, đã nhấn mạnh như vậy. Ta hiểu càng ngày càng rõ ràng các mảng xơ mỡ này được cấu tạo như thế nào. Các phần tử LDL tích tụ trong lớp nông của các thành động mạch, ở đây được oxy hóa dần dần và bị ăn bởi các đại thực bào ; những đại thực bào này được biến đổi thành những tế bào bọt (cellule spumeuse) chứa đầy cholestérol. Mảng được tạo thành như thế trở nên hóa sợi và viêm. “ Lúc lớn lên, mảng làm tắc động mạch và hạn chế sự cung cấp máu vùng hạ lưu, điều này gây nên cơn đau thắt ngực hay viêm động mạch. Nếu mảng không vững và vỡ, một huyết khối (thrombus) được tạo thành lúc tiếp xúc với máu và có thể bít động mạch, gây nên nhồi máu hay một tai biến mạch máu não ”, GS Michel Krempf, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU de Nantes đã tóm tắt như vậy.
“ Vì mối liên hệ giữa nguy cơ tim-mạch và nồng độ LDL trong máu liên tục, nên phải giảm nồng độ LDL khi nguy cơ tim mạch càng cao. Nguy cơ này được tính bằng cách xét đến tuổi tác, giới tính, huyết áp, các tiền sử tìm-mạch, chứng nghiện thuốc lá và bệnh đái đường của bệnh nhân, GS Eric Bruckert, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU Pitié-Salpetrière (Paris) đã giải thích như vậy. Có một sự nhất trí tuyệt đồi về sự cần thiết phải làm hạ cholestérol của những người có nguy cơ tim mạch cao. Và không có lý do phải điều trị những người có nguy cơ thấp mà xác suất tai biến tim-mạch trong mười năm là dưới 10%. Quyết định tế nhị hơn đối với những người có nguy cơ ở mức trung gian. Như vậy, có vẻ dường như hợp lý khi điều trị một người đàn ông 60 tuổi bị bệnh đái đường, mặc dầu cholestérol của ông ta không cao lắm, và không điều trị một phụ nữ 30 tuổi nhưng không có yếu tố nguy cơ nào khác một nồng độ cholestérol hơi cao ”, ông ta nói tiếp như vậy. Trong thực hành, ta xem như là có thể chấp nhận được một nồng độ cholestérol toàn thể quanh 2g/L và LDL quanh 1,3g/L. Nhưng nơi một người có nguy cơ cao, ta tìm cách để có được một LDL dưới 1g/l , và 0,70g/l trong phòng ngừa thứ cấp sau một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu não.
Mới đây, tạp chí y khoa độc lập Cochrane kêu gọi thận trọng trong việc kê đơn statines, thuốc làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant), nơi những người có nguy cơ tim-mạch thấp, nhấn mạnh những hạn chế của các công trình nghiên cứu được thực hiện trong 10 năm về sự đóng góp của các thuốc chống cholestérol quan trọng này trong sự phòng ngừa nguyên phát các tai biến tim mạch. Điều này làm phát động trở lại cuộc tranh luận, mặc dầu, GS Bruckert đánh giá, “ công trình nghiên cứu này chỉ nói lại điều mà tất cả chúng ta đã nói : trong phòng ngừa nguyên phát, nơi những người có nguy cơ thấp, tỷ suất lợi ích/nguy cơ của statine không được tốt ”. Nơi những người có nguy cơ cao, statine, do làm hạ thấp nồng độ LDL, làm giảm 30% nguy cơ tai biến tim mạch, nhưng đôi khi với cái giá bị đau cơ. Statine làm giảm sự tổng hợp cholestérol, nhưng việc khám phá những tác dụng kháng viêm cũng gợi ý những cách tác dụng khác.
THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.
Còn về HDL, các công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng một nồng độ tăng cao có một tác dụng bảo vệ, nhưng chuyển hóa của nó là phức hợp hơn nhiều so với chuyển hóa của LDL. Những kết quả đầu tiên của anacetrapib, một thứ thuốc đang được thử nghiệm có tác dụng làm gia tăng HDL do ức chế sự biến đổi nó thành VLDL, dường như đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên sự biến đổi các thói quen ăn uống vẫn là cơ sở của điều trị đối với những người có nguy cơ ở mức độ vừa phải. Sự biến đổi này nhằm giảm các thức ăn giàu mỡ bảo hòa (graisses saturées), nhất là nguồn gốc động vật, như bơ, phó mát, thịt mỡ (ngoại trừ cá).. và sử dụng dầu thực vật giàu mỡ không bảo hòa (graisses insaturées). “ Đó thật sự là một chiến lược quan trọng, được bắt đầu ngay thời kỳ ấu thơ, nhằm tránh một phần lớn những vấn đề liên quan đến sự thặng dư cholestérol ”, GS Bruckert đã nhấn mạnh như vậy. Những dịch bệnh béo phì hiện nay, do làm gia tăng các triglycéride, cũng làm gia tăng LDL trong máu và báo hiệu một dịch bệnh đái đường, nguy cơ chống lại những tiến bộ đã đạt được và hẳn đưa đến một chính sách phòng ngừa tích cực hơn.
(LE FIGARO 14/3/2011)
2/ TRƯỚC HẾT PHÒNG NGỪA VỆ SINH-ĂN UỐNG.
“ Trong những năm 1970, miền bắc của Phần Lan giữ kỷ lục thế giới về nhồi máu cơ tim với một tỷ lệ mắc bệnh 5 lần cao hơn tỷ lệ của một thành phố như Toulouse. Chính quyền đã áp dụng những biện pháp triệt để, như chuyển đổi công nghiệp chế tạo sữa và giáo dục dân chúng hàng ngày, và đã thành công bình thường hóa nồng độ của cholestérol ”, GS Jean Ferrières đã kể lại như vậy. Việc tăng cao toàn bộ của LDL trong các nước đang trên đường tây phương hóa và dịch bệnh béo phì đang giáng vào các nước phát triển gợi ý phải áp dụng những biện pháp toàn bộ để làm giảm nguy cơ tim mạch.. “ Dành cho các nước đang phát khởi (pays émergents) như Ấn Độ, viên thuốc polypill của GS Salim, quy tụ trong cùng một viên thuốc các thuốc chống cao áp, aspirine, và một statine, đi theo chiều hướng này. Cũng như ý kiến đề nghị các statine được cung cấp với các Hamburger ở Anh, tại đây các loại thuốc này được bán tự do ”, thầy thuốc chuyên khoa tim đã nói thêm như vậy.
MỘT CỐ GẮNG CẦN THEO ĐUÔI.
Mặc dầu chống lại những giải pháp này, tuy nhiên thầy thuốc chuyên khoa tim vẫn công nhận là cần phải phát động cuộc tranh luận. Cùng sự chống đối của GS Eric Bruckert đối với việc kê đơn “ đại trà ” các statine để phòng ngừa nguyên phát. “ Về phương diện y khoa, điều đó thật không nghiêm chỉnh và đó là một điều vô nghĩa (non-sens) về mặt y-kinh tế, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết đã đánh giá như vậy, ông nhấn mạnh ảnh hưởng của các lobby công nghiệp với lập trường khác nhau trong cuộc tranh luận này : công nghiệp chế tạo sữa chỉ mong muốn làm giảm thiểu vai trò của cholestérol như là yếu tố nguy cơ tim-mạch, còn công nghiệp dược và những nhà công nghiệp sản xuất các thức ăn giàu oméga-3, trái lại, lại muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của nó. Những lợi ích dị biệt này là nguồn gốc của các thông điệp mâu thuẫn nhau gởi đến công chúng. ”
Tuy vậy, những cố gắng phòng ngừa đã cho thấy sự hữu ích ở Pháp, là nơi tỷ lệ trung bình của cholestérol toàn thể đã chuyển từ 6g/l xuống 5g/l trong 30 năm. Cố gắng này phải được theo đuổi trong một bối cảnh dịch béo phì gia tăng, mặc dầu cũng có một sự biến thiên lớn về tính nhạy cảm di truyền đối với chế độ ăn uống. Đối với BS Jean-Michel Lecerf, thầy thuốc dinh dưỡng học (Viện Pasteur Lille), “ vai trò của cholestérol chỉ được giải thích trong một khung cảnh dinh dưỡng và những yếu tố nguy cơ tim mạch toàn thể ”. Nhưng những công trình nghiên cứu được căn cứ bởi các khuyến nghị về ăn uống dành cho dân chúng bắt đầu xưa cổ.
“ Hôm nay, ta có thể nói một cách tóm tắt rằng một chút ít mỡ bảo hòa (graisse saturée) (mỡ động vật) không có hại, rằng sự tiêu thụ các acide béo polyinsaturé giàu oméga-6 (đặc biệt dầu tournesol, bắp, đậu nành) là đủ và không được gia tăng, rằng các acide béo trans, thu được bằng hydrogénation các acide béo polyinsaturé, rõ ràng là có hại, và rằng dân chúng nhìn toàn bộ vẫn thiếu oméga-3 mà lợi ích rõ ràng, vị thầy thuốc đã đánh giá như vậy. Một sự cung cấp đủ các sợi cũng ngăn ngừa sự thặng dư LDL, cũng như việc tập thể dục và sự làm mất cân cũng là một bộ phận của công tác phòng ngừa này. Mặt khác, các chất oxy hóa (oxydants), polyphénols và oligo-élément (trái cây và rau xanh, trà, cacao, đậu nành…) làm giảm sự oxy hóa của các LDL và như thế hạn chế khả năng tạo xơ mỡ (pouvoir athérome). Sự tiêu thụ chúng phải được khuyến khích ”, BS Jean-Michel Lecerf đã nói tiếp như vậy.
(LE FIGARO 14/3/2011)
3/ VIÊM GAN C : CUỘC CÁCH MẠNG ĐIỀU TRỊ
Năm 2001 bắt đầu bằng những điềm tốt đối với những người bị nhiễm bởi virus của viêm gan C. Bởi vì những loại thuốc mới hiệu quả hơn đang đến trên thị trường. Một hy vọng chữa lành rất lớn đối với các bệnh nhân.
Hai loại thuốc hoạt tính chống lại virus của viêm gan C vừa được giấy phép tạm thời sử dụng (ATU : autorisation temporaire d’utilisation). Thủ tuc điển hình của Pháp này sẽ cho phép điều trị rất nhanh gần 1500 bệnh nhân. “ Một première mondiale, GS Stanislas Pol, lấy làm sung sướng Các loại thuốc này thuộc một họ mới (các antiprotéase), có tác dụng ức chế một cách đặc hiệu sự tăng sinh của virus. Điều này sẽ làm gia tăng tính hiệu quả của điều trị hiện nay lên gần 50%, giảm thời gian điều trị và các tác dụng phụ.
“ Những người đầu tiên được hưởng sẽ là những người đã bị mot xơ gan do viêm gan và đã không đáp ứng với điều trị trước đây, thầy thuốc chuyên khoa gan đã xác nhận như vậy. Rồi, khi giấy phép đưa thuốc ra thị trường được cấp, điều này được dự kiến trong năm nay, khi đó có thể điều trị những bệnh nhân đã có thể chờ đợi. Bởi vì điều trị khong bao giờ là cấp cứu cả khi không có thương tổn gan trầm trọng. ”
HƠN 75% NHỮNG TRƯỜNG HỢP CHỮA LÀNH ĐƯỢC DỰ KIẾN VỚI TRITHERAPIE
Tuy nhiên, tiến bộ rất lớn này, hiện nay, chỉ có liên quan 55% các bệnh nhân, những bệnh nhân chứa một loai virus C đặc biệt (génotype 1). Thật vậy có 5 loại virus của viêm gan C. Với những điều trị được sử dụng cho đến nay (tiêm dưới da hai loại thuốc kháng virus, interféron và ribavirine), ta chữa lành hơn 80% các bệnh nhân bị nhiễm bởi các virus génotype 2 hoặc 3. Và các tỷ lệ chữa lành của các génotype khác (1,4 và 5) hơi cao hơn 50%. Bằng cách thêm vào một trong hai loại thuốc mới này, tỷ lệ này leo lên 75% đối với những người bị nhiễm bởi génotype 1. Tuy nhiên các bệnh nhân mang một génotype 4 hay 5 sẽ không thua kém gì. Nhiều loại thuốc chống virus đầy hứa hẹn khác hiện đang trong các “ tuyaux ” của các phòng bào chế và đã là đối tượng của các công trình nghiên cứu lâm sàng. Các thuốc sắp đến tác động lên những enzyme khác có liên hệ trọng chu kỳ tăng sinh của virus của viêm gan C.
NGƯỜI TA TÌM CÁCH HẠN CHẾ NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ
Các nhà khoa học cố gắng xác định các phối hợp của các chất kháng virus để tránh sự xuất hiện của các virus đề kháng (như trường hợp với các thuốc chống lại VIH, chịu trách nhiệm bệnh sida). Các nhà nghiên cứu cũng tìm kiếm các công thức có thể thay thế liệu pháp cổ điển mà bệnh nhân kém chịu được những mũi tiêm. Với hai mục tiêu : điều trị bằng thuốc uống và làm giảm các tác dụng phụ.
Nhưng không phải tất cả chỉ có thế. “ Năm vừa qua, một công trình nghiên cứu của Israel đã cho thấy rằng một sự cho bo sung vitamine D có thể làm tăng gấp đôi tính hiệu quả của điều trị cổ điển nơi vài người bệnh, GS Pol đã giải thích như vậy. Từ đó, trong lúc chờ đợi sự xác nhận của công trình nghiên cứu này, tôi đã không do dự cấp cho các bệnh nhân của tôi vitamine D bởi vì tôi có cảm tưởng như thế có thể cải thiện tính hiệu quả của nó. ”
NHỮNG TRẮC NGHIỆM ĐỂ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ TỐT HƠN.
Sự hiệu chính các trắc nghiệm mới cũng cho phép tiên đoán tính hiệu quả của các thuốc kháng virus, do đó cho phép kê đơn chúng tốt hơn. Một trong những thuốc kháng virus này, liên hệ tính hiệu quả của điều trị chuẩn lên virus génotype 1, sẽ được thương mãi hóa năm nay. Nó được phát triển bởi các nhà nghiên cứu của Inserm, của Viện Pasteur và của Đại học Paris Descartes. “ Nhiên hậu, nhà chuyên gia đã xác nhận như vậy, những trắc nghiệm này sẽ cải thiện những chiến lược điều trị. Chúng tôi đang thử hiệu chính một protocole nhằm biến đổi profil cùa một bệnh nhân “ đáp ứng tồi ” (mauvais répondeur) đối với thuốc thành người “ đáp ứng tốt ”.
TA CŨNG NHẬN THẤY RẰNG GAN CŨNG ĐƯỢC SỬA CHỮA
“ Hôm nay, với thời gian nhìn lại, Stanislas Pol đã nhấn mạnh như vậy, chúng ta có thể xác nhận rằng không những nhiều bệnh nhân bị viêm gan C được chữa lành trên bình diện virus học, mà gan của họ cũng được tu sửa (với điều kiện là họ không có những bệnh gan nào khác gây nên bởi rượu hay sự tăng thể trọng). Và sự sửa chữa này xảy ra mặc dầu gan đã ở giai đoạn xơ gan trước khi điều trị ! Do đó tầm quan trọng được phát hiện khi ta có nguy cơ, bởi vì nhiễm trùng bởi virus này vẫn im lặng (không triệu chứng) lâu dài.
Khi nào phải làm xét nghiệm phát hiện ? Đối với virus của viêm gan C cũng như đối với virus của viêm gan B hay của sida, sự lây nhiễm là do máu. Những người được mổ trước 1992 và những phụ nữ sinh đẻ trước thời điểm này đều bị liên hệ, bởi vì họ có thể đã được truyền máu mà không hay biết. Và những người đã tiêu thụ thuốc ma túy, dầu chỉ một lần, cần nói điều đó với thầy thuốc của mình. Với sự xuất hiện trên thị trường liệu pháp 3 loại thuốc (trithérapie), xét nghiệm phát hiện bệnh cho mình, hơn bao giờ hết đó là cho bản thân mình những cơ may chữa lành bệnh.
(TOP SANTE 4/2011)
4/ HIỂU VỀ TÍNH PHÓNG XẠ QUA 5 CÂU HỎI CHỦ YẾU.
1/ Tính phóng xạ (radioactivité) phải chăng là một sáng tạo của con người hay vốn đã có trong tự nhiên ?
Vâng, tính phóng xạ hiện hữu ở trạng thái tự nhiên. Trong lòng nguyên tử là các hạt nhân. Vài hạt nhân, mỏng manh hơn những hạt nhân khác, bị vỡ một cách ngẫu nhiên, đó là sự phân rã hạt nhân (fission) đồng thời làm thoát ra năng lượng dưới dạng nhiệt và các bức xạ (rayonnements). Chính năng lượng này mà ta có thể đo được. Chính những bức xạ được phát ra như thế ta gọi là tính phóng xạ (radioactivité). Ngay cả cơ thể con người hay những ngôi nhà bằng granit ở Bretagne (3 mSv) cũng phát ra các bức xạ. Khi đi du lịch bằng máy bay, bức xạ vũ trụ (rayonnement cosmique) gây nên một phát xạ (irradiation) 0,05 mSv đối với một chuyến bay khứ hồi Paris-Nữu Ước.
Những hiệu quả đầu tiên được phát ra bởi các muối uranium đã được khám phá bởi Henri Becquerel vào năm 1896. Năm sau, Marie Curie chọn chủ đề nghiên cứu này cho luận án của mình. Bà nghiên cứu vấn đề cùng với chồng mình là Pierre. Tất cả ba đã nhận giải Nobel về vật lý vào năm 1913 do những công trình này. Từ đó con người cố gắng chế ngự nguồn năng lượng này.
2/ Những chất phóng xạ (substances radioactives) được phát ra vào lúc tai nạn nhà máy nguyên tử là gì ?
Trong một đám mây được phát ra từ một tai nạn nguyên tử, ta tìm thấy những chất bay hơi do sự phân rã hạt nhân (fission) trong trung tâm của lò phản ứng nguyên tử (réacteur nucléaire). Đó chủ yếu là các phân tử iode và césium. Và chính những chất này có ảnh hưởng lớn nhất lên sức khỏe. Nguy hiểm khác được liên kết với những bức xạ không nhìn thấy được như các hạt alpha và bêta, và các bức xạ gamma (gần giống với các tia X). Những bức xạ này càng nguy hiểm nếu ta ở gần nguồn phát xuất ra chúng.
3/ Mây phóng xạ (nuage radioactif) trở thành gì ?
Hiện giờ, trái với tai họa Tchernobyl, các phát xạ độc (émissions toxiques) từ các lò nguyên tử bị tai biến đã không bay lên cao lắm trong khí quyển. Những yếu tố khí tượng, gió và thời tiết xấu, sẽ có một ảnh hưởng quan trọng lên sự tiến triển của nó, trong thời gian và không gian. Thành phần chính xác của đám mây gồm những phần tử phóng xạ (particules radioactives) cũng sẽ có tính chất quyết định : lượng iode được chia hai mỗi tám ngày, trong khi chu kỳ khoảng 30 năm đối với césium. Đối với Pháp, những dự đoán khá an lòng. “ Ít có khả năng biến cố này (ở Nhật) gây những hậu quả ở Pháp, tuy nhiên IRSN được yêu cầu kiểm tra bằng các tính toán có tính đến những kịch bản cực đoan nhất ”, theo Olivier Gupta, phó tổng giám đốc của ASN, nhân một cuộc họp báo. Ngược lại “ Sẽ có những hạt phóng xạ được phát hiện trong bầu không khí trên toàn thế giới ”, Jacques Repuusard, giám đốc của IRNS hôm qua đã đánh giá như vậy.
4/ Sự khác nhau nào giữa phát xạ(irradiation) và ô nhiễm (contamination).
Thường lẫn lộn, hai thuật ngữ này tuy vậy lại rất khác nhau. Sự phát xạ (irradiation) là hậu quả trực tiếp của một sự tiếp xúc bên ngoài của một cơ thể (dầu còn sống hay đã chết với những bức xạ ion hóa (rayonnements ionisants). Ngược lại ta nói ô nhiễm (contamination) khi một sản phẩm phóng xạ (produit radioactif) lắng đọng trên một người hay một đồ vật hay khi nó được hít hay nuốt vào. Trong trường hợp phát xạ, tác dụng sẽ ngừng khi ta lánh xa vật hay người khỏi nguồn bức xạ (source de rayonnement).
Ngược lại, trong trường hợp ô nhiễm, sự sản xuất hoạt tính phóng xạ (radioactivité) tiếp tục và dài lâu chừng nào nguồn gây ô nhiễm (source de contamination) đã không được loại bỏ. Trong trường hợp tai nạn nguyên tử, các công nhân chủ yếu bị các phát xạ (iradiations). Dân chúng sống kế cận các nhà máy nguyên tử chủ yếu có nguy cơ bị lây nhiễm, các phần tử phóng xạ (particules radioactives) đi vào trong cơ thể qua da hay do hít vào. Sự ô nhiễm cũng có thể được thực hiện qua đường tiêu hóa, do ăn vào những thức ăn bị ô nhiễm.
5/ Những nguy cơ đồi với sức khỏe là gì ?
Những hậu quả đối với cơ thể phần lớn tùy thuộc vào liều lượng nhận được. Liều lượng này có thể đạt nhiều sievert đối với những công nhân làm việc gần trung tâm của những lò phản ứng nguyên tử. Không được điều trị, sự tiếp xúc với một liều lượng 6 sievert (Sv) gây tử vong trong 100% các trường hợp. Sự tiếp xúc với những liều lượng thấp hơn, khoảng 1 sievert gây nên một hội chứng phát xạ cấp tính (syndrome d’irradiation aigue).
Hội chứng này được thể hiện bởi nôn mửa trong những giờ tiếp theo sau sự phát xạ, rồi những triệu chứng khác xuất hiện sau một thời gian tiềm phục vài ngày : sốt, ỉa chảy, xuất huyết, nhiễm trùng những dấu hiệu này thể hiện một sự phá hủy ồ ạt các tế bào của cơ thể. Những tế bào của thành tiêu hóa và của tủy xương (những tiền thân của các hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu) là nhạy cảm nhất với các bức xạ (radiations). Các mô phôi thai và các cơ quan sinh sản cũng rất nhạy cảm với tia X (radiosensible), điều này giải thích nguy cơ bị dị tật bào thai, và bệnh vô sinh, nơi đàn ông cũng như phụ nữ.
Về dài lâu, sau nhiều năm, một sự quá mức các ung thư (ung thư máu, các khối u tuyến giáp, của phổi) được quan sát. Đó là hậu quả chính đối với dân chúng sống gần những lò nguyên tử. Nguy cơ bị ung thư tỷ lệ với liều lượng nhận được. Nguy cơ này xuất hiện đối với một sự tiếp xúc trên 100 mSv, và gia tăng 5,5% mỗi sievert.
Chỉ có các ung thư tuyến giáp là có thể được phòng ngừa một cách hiệu quả, bằng cách dùng sớm các viên thuốc iode.
(LE FIGARO 17/3/2011)
5/ SỰ GIA TĂNG CÁC UNG THƯ TUYỂN GIÁP Ở PHÁP PHẢI CHĂNG LÀ DO TCHERNOBYL ?
Professseur André Aurengo
Médecine nucléaire et Biophysique
Membre de l’Académie nationale de médecine
Ở Ukraine, Biélorusie và Nga, tai nạn vào tháng tư năm 1986, đã phá hủy trung tâm nguyên tử Tchernobyl, đã gây nên khoảng 5000 ung thư tuyến giáp, xảy ra nơi các trẻ em hay trong tử cung vào lúc tai nạn ; Trong số các nạn nhân này, có khoảng 15 trường hợp tử vong. Ở Pháp, ngày nay “ mây ” phóng xạ (nuage radioactif) vẫn còn là đối tượng gây tranh cãi, và, mặc dầu những lời chối bỏ liên tiếp của các nhà khoa học, sự gia tăng đều đặn của các ung thư tuyến giáp vẫn được quy một cách hệ thống vào những hậu quả của Tchernobyl. Hiện nay chúng ta không có một tiêu chuẩn sinh học nào cho phép quy một ung thư là do phóng xạ hay không, nhưng nhiều sự kiện cho thấy rằng sự gia tăng ung thư tuyến giáp ở Pháp không phải là đó Tchernobyl.
MỘT THÀNH KIẾN
Sự gia tăng này đã bắt đầu 10 năm trước khi tai nạn Tchernobyl và đã không gia tăng từ năm 1986 ; ta gặp sự gia tăng này trong tất cả các nước phát triển (bị lây nhiễm hay không bởi tai nạn), nơi đây người ta thực hiện siêu âm ; sự gia tăng này chỉ liên quan đến những người lớn, trong khi một “ hậu quả Tchernobyl ” chỉ liên quan đến các trẻ em rất nhỏ tuổi hay trong tử cung vào năm 1986 ;
Iode phóng xạ chỉ gây ung thư tuyến giáp nơi trẻ em. Đó là điều được chứng tỏ bởi những công trình nghiên cứu được thực hiện trên 45.000 người trưởng thành được điều trị hay thăm dò bằng iode 131, hay quá trình theo dõi của những người bị phát xạ (irradiés) ở Hiroshima và Nagasaki. Các trẻ em của Liên Xô trước đây đã bị ung thư tuyến giáp sau Tchernobyl, 80% dưới 5 tuổi và 98% dưới 10 tuổi vào năm 1986. Những ung thư tuyến giáp này chỉ được quan sát đối với những liều lượng tuyến giáp trên khoảng 100 miligray (mGy, đơn vị liều lượng phát xạ). Thế mà, nhờ nhiều đo lường được thực hiện vào năm 1986 bởi Service central de protection chống lại các tia bức xạ ion hóa lên các thực phẩm, ta đã có thể chia nước Pháp thành 4 vùng trong nó những liều trung bình nhận được giảm từ đông sang tây. Những liều tối đa đối với tuyến giáp là từ 7 đến 16 mGy.
NHIỀU UNG THƯ HIỀN TÍNH.
Đúng là có một sự gia tăng các trường hợp ung tuyến giáp, nguyên nhân thật sự ở đâu ? Phần lớn các chuyên gia nghĩ rằng sự gia tăng này chủ yếu là do sự phát triển của siêu âm, của tế bào học (cytologie) và sự tiến bộ của các thực hành ngoại khoa. Ngay trước khi xảy ra tai họa Tchernobyl, ta đã biết rằng nơi 6 đến 28% những người trưởng thành, có những ung thư tuyến giáp rất nhỏ, không phát triển và phần lớn không được nhận biết. Nếu ta tìm kiếm chúng bằng siêu âm (cho phép phát hiện một nốt tuyến giáp kích thước vài milimet), thì ta sẽ tìm thấy, thế mà các thống kê bị thổi phồng lên bởi những ung thư nhỏ không nghiêm trọng này. Ngoài ra, trong khi những phương pháp điều trị đã ít thay đổi, tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến giáp giảm, một cách yếu ớt nhưng đều đặn.
(LE FIGARO 21/5/2010)
6/ UỐNG NƯỚC ĐỂ BẢO VỆ THẬN
Ngày quốc tế về thận (Journée du rein) nhắc nhở chúng ta làm sao ngăn ngừa các căn bệnh của thận vốn âm thầm quá lâu.
NEPHROLOGIE. Mỗi năm, do chẩn đoán muộn, hàng triệu người trên thế giới chết sớm vì suy thận mãn tính hay vì những biến chứng của nó. Thế mà bệnh thận, nói chung tiến triển âm thầm không triệu chứng rất lâu trước khi được khám phá, nhất là do một bệnh đái đường hay một cao huyết áp, có thể được làm chậm lại, với điều kiện được phát hiện kịp thời. Chính trong bối cảnh này mà Liên đoàn quốc tế của các cơ sở về thận đã quyết định phát động mỗi năm, vào ngày 11 tháng ba đối với năm 2011, ngày thế giới về thận (Journée mondiale du rein), nhằm nhắc lại các chiến lược phòng ngừa và điều trị những căn bệnh mà người ta chỉ nhắc đến rất hiếm hoi trong giới truyền thông.
Hôm nay, trong bối cảnh này, một hội nghị được tổ chức ở Académie de médecine về đề tài, thận, nước và sức khỏe. Thận bài tiết nước, trước hết đuợc lọc bởi các vi cầu thận, vận chuyển các chất cặn bã của cơ thể hòa tan trong huyết thanh và lưu thông trong các huyết quản. Nhà máy hóa học, mà đại biểu là các ống thận (tubules rénaux) sau đó sẽ biến đổi hoàn toàn thành phần của nước tiểu nguyên phát (urine primitive) này để cô đọng các chất phế thải trong một thể tích nhỏ nước và thích ứng sự phế thải vài ion sinh tử như sodium, potassium, calcium… tùy theo nhu cầu của cơ thể, đồng thời có tính đến hoạt động của các cơ quan, chế độ ăn uống, môi trường. Trong trường hợp suy thận, cơ quan này không còn có thể làm tròn chức năng, với nguy cơ tích lũy nước và các sản phẩm độc trong cơ thể.
Mỗi phút, 600 ml nước đến trong thận. Thận lọc 20% , hoặc 170 lít mỗi ngày, tái hấp thụ 99%, 1% còn lại tạo thành nước tiểu. “ Nước được liên kết chặt chẽ với bệnh thận, BS Brigitte Lantz , tổng thư ký của Fondation du rein (Paris) đã giải thích như vậy. Những người không uống đủ nước, một mặt có nguy cơ gia tăng bị sỏi thận. Điều căn bản là uống mỗi ngày 1 lít rưởi đến 2 lít nước. Mặt khác, nước robinet có chất lượng rất tốt. Những người già mất cảm giác khát và thường uống ít, ngay cả khi trời nắng. Khi đó họ bị đe dọa mất nước (déshydratation). Đó là một trong những lý do họ đã là những nạn nhân chủ yếu của mùa hè đỏ lửa năm 2003. “ Một sự cung cấp nước không đủ có thể dẫn đến nơi những người già một sự suy thận chức năng, BS Lantz nói thêm như vậy. Do đó cần phải khuyến khích họ uống nước.
BA TRIỆU BỆNH NHÂN Ở PHÁP
Ngược lại, những người bị suy thận mãn tinh và được điều trị bằng thẩm tách (dialyse) không thể uống cho đả khát. Việc mất chức nằng thận gây nên sự ứ trong cơ thể những chất dịch được uống vào, mà chỉ có thẩm tách mới có thể loại bỏ nhằm tái lập sự quân bình. Sự mất quân bình có nghĩa là lên cân, phù nề, cao huyết áp, các biến chứng tim mạch và não. Ở Pháp, gần 3 triệu người bị một bệnh thận, 37.000 người đang được thẩm tách và 31.000 người đã được ghép thận.
Mỗi năm, 8000 bệnh nhân mới được thẩm tách. Fondation du rein đã được thành lập vào tháng ba năm 2002 theo sáng kiến của nhiều société savante và các hiệp hội trong mục đích thông tin công chúng.
(LE FIGARO 10/3/2011)
7/ ĐỂ BẢO VỆ TRÁI TIM MÌNH, CÓ CẦN PHẢI THEO DÕI THẬN ?
Professeur Jean-Claude Dussaule
Service de physiologie
Hopital Saint-Antoine (Paris)
Membre de l’Académie nationale de médecine
Một bệnh nhân bị một bệnh thận có nhiều nguy cơ chết vì một tai biến tim mạch hơn là đạt đến giai đoạn cuối cùng của suy thận. Sự việc bị bệnh thận được thêm một cách độc lập vào những yếu tố nguy cơ tim mạch khác đã được biết rõ (cao huyết áp, sự lão hóa, chứng nghiện thuốc lá, bệnh béo phì, bệnh đái đường, thiếu tập thể dục…)
Tất cả các công trình nghiên cứu đều dẫn đến cùng những kết luận. Ví dụ khi so sánh với những người lành mạnh cùng lứa tuổi, nguy cơ tử vong tim mạch được tăng lên 15 đến 30 lần nơi bệnh nhân suy thận được điều trị bằng thẩm tách máu và tăng lên 3 lần nơi những bệnh nhân bị một bệnh thận với suy thận ở mức độ trung bình.
Cũng vậy, sự khám phá một biến chứng thận nơi một người bị một bệnh tim mạch đã có trước là một yếu tố tiên lượng xấu. Thí dụ, nơi những người cao huyết áp, sự tăng cao của créatinine huyết thanh (là một chỉ dấu về mức độ nghiêm trọng của sự biến đổi chức năng thận), làm gia tăng nguy cơ tử vong trong tiến triển lâu dài của bệnh.
Ngoài ra, sự xuất hiện của một nhồi máu cơ tim hay của một tai biến mạch máu não nơi bệnh nhân cao huyết áp là thường xảy ra hơn nếu có một suy thận, ngay ở mức độ vừa phải, hay chỉ có một albumine-niệu đơn thuần. Một cách còn ngoạn mục hơn, yếu tố tiên đoán tử vong đáng kể nhất nơi những người bị suy tim đang được điều trị hiệu quả là sự biến đổi của chức năng thận. Những quan sát tương tự đã được thực hiện khi theo dõi những bệnh nhân sau khi bị nhồi máu cơ tim.
Sau hết, dầu nồng độ trong nước tiểu tăng cao (macroalbuminurie) hay thấp (microalbuminurie), sự hiện diện bất thường của các protéine trong nước tiểu có một giá trị tiên lượng đối với tiến triển của các bệnh tim mạch. Như thế, albumine-niệu có thể được sử dụng như là một chất chỉ dấu của nguy cơ tim-mạch, bởi vì sự giảm của albumine-niệu trong điều trị cũng như sự trầm trọng ngẫu nhiên của nó làm biến đổi nguy cơ này theo cùng chiều hướng.
Làm sao ta có thể giải thích sự can thiệp của bệnh thận trong tình trạng tim và mạch, điều mà ta thường mệnh danh là hội chứng tim-thận (syndrome cardiorénal) ? Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, mỗi giả thuyết có một phần sự thật. Một trong những hậu quả của thương tổn thận là một sự khiếm khuyết chức năng của chính các huyết quản thận và, đặc biệt hơn, các tế bào nội mô tiếp xúc với máu. Những tế bào này khi đó bắt đầu tổng hợp những chất có hại đối với tim và những động mạch như các dẫn xuất phản ứng của oxy và ADMA (“asymmetric dimethylarginine ”), một chất tương cận acide aminé ngăn cản sự sản xuất monoxyde d’azote, là một chất bảo vệ nội tại của các huyết quản.
TÌM KIẾM ALBUMINE
Những giả thuyết khác cần ghi nhớ, đặc biệt là sự rối loạn của chức năng nội tiết của thận. Thật vậy, trong số những chất mà chúng tổng hợp một cách bình thường, có một dẫn xuất hoạt tính của vitamine D. Sự biến đổi của chuyển hóa của vitamine D nơi người suy thận, do làm biến đổi các nồng độ của calcium và phosphate trong huyết tương, sẽ làm dễ những vôi hóa huyết quản đối diện với các mảng xơ mỡ và làm gia trọng những hậu quả.
Như ta thấy đó, “ bảo về thận, đó là để tránh cho trái tim mình ”. Thầy thuốc gia đình và thầy thuốc chuyên khoa tim phải đặc biệt chú ý thẳm dò chức năng thận nơi các bệnh nhấn bằng cách tìm kiếm albumine trong nước tiểu và định lượng créatinine trong huyết thanh. Như thế ta sẽ làm giảm nguy cơ tim-mạch mà những bệnh nhân bị bệnh thận gặp phải.
(LE FIGARO 31/1/2011)
8/ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG : NHIỀU LỢI ÍCH HƠN VỚI VACCIN BIVALENT.
GS Roman Rouzier, thầy thuốc chuyên khoa phụ sản bệnh viện Tenon, giải thích thuốc chủng mới nhất này ngăn ngừa như thế nào những thương tổn tiền ung thư của cổ tử cung.
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi tỷ lệ lưu hành của ung thư cổ tử cung ?
GS Roman Rouzier. Trên thế giới mỗi năm ta thống kê được 500.000 trường hợp, trong đó 3000 ở Pháp. Tiếc thay 1/3 còn được chẩn đoán ở một giai đoạn rất muộn.
Hỏi : Một thương tổn của cổ tử cung tiến triển thành ung thư như thế nào ?
GS Roman Rouzier. Ngày nay ta biết rất rõ sự phát triển của nó. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn lây nhiễm bởi một virus (thuộc họ papillomavirus) khi giao hợp. Nơi khoảng 90% các phụ nữ bị nhiễm trùng, virus được loại bỏ trong một hay hai năm bởi hệ miễn dịch. Nơi 10% người còn lại, virus vẫn tồn tại và một thương tổn tiền ung thư có thể được tạo thành, nhưng với những tế bào ung thư chưa xâm nhập những tổ chức sâu của cổ tử cung. Những thương tổn vẫn còn ở bề mặt. Khoảng 10 chục năm sau, thương tổn trở nên thâm nhiễm (lésion infiltrante), nghĩa là trở thành ung thư, nhưng luôn luôn khu trú tại chỗ. Và khi đó, có một nguy cơ căn bệnh sẽ lan rộng.
Hỏi : Có nhiều loại papillomavirus, nhưng loại nào nguy hiểm nhất ?
GS Roman Rouzier: Cho đến nay, ta đã đếm được khoảng 100 papillomavirus, trong đó 15 có nguy cơ cao, và đặc biệt hai trong số những virus này : papillomavirus 16 và18. Những papillomavirus khác, ít hung dữ hơn, các papillomavirus 31, 33 và 45, gây nên những thương tổn tiền ung thư có tiến triển chậm hơn. Mặc dầu khả năng nguy hiểm của chúng, ta xem chúng là “ ít dữ ” hơn. Những virus ít gây hại hơn, “ có nguy cơ thấp ”, là nguyên nhân của những mụn cóc sinh dục (verrue génitale) được gọi là condylome hay mào gà và không thoái hóa thành ung thư.
Hỏi : Frottis cổ tử cung được xem là phát hiện sự phát triển của một ung thư. Những hạn chế của nó là gi ?
GS Roman Rouzier: Bệnh phẩm này cho phép phát hiện những thương tổn tiền ung thư, điều này dẫn đến điều trị chúng bằng một can thiệp ngoại khoa ngoại trú được gọi là “ khoét chóp ” (conisation), nhằm lấy đi một phần của cổ tử cung.
Hỏi : Những hậu quả của can thiệp này là gì ?
GS Roman Rouzier: Một nguy cơ sinh non. Do đó cần tiêm chủng để tránh su tiến triển đến giai đoạn đầu tiên của tiền ung thư.
Hỏi : Vaccin được khuyến nghị cho đến nay tác động chống lại loại papillomavirus nào ?
GS Roman Rouzier: Vaccin đầu tiên được thương mãi hóa bảo vệ chống lại các papillomavirus 16 và 18, và cũng chống lại condylome.
Hỏi : Thế tác dụng của vaccin mới “ hai hóa trị ” là gì ?
GS Roman Rouzier: Vaccin này bảo vệ không những chống lại các papillomavirus 16 và 18, mà còn chống lại một phần các papillomavirus 31, 33 và 45 (nhưng khong chống lại các condylome). Tác dụng này được mệnh danh là “ bảo vệ chéo ” (protection croisée). Vậy vaccin mới mang lại một sự che chở rộng hơn chống lại sự phát triển của những thương tổn tiền ung thư của cổ tử cung.
Hỏi : Những thử nghiệm nào đã chứng tỏ tính hiệu quả lớn hơn này ?
GS Roman Rouzier: Công trình nghiên cứu quốc tế mới đây, được thực hiện trên 18.000 phụ nữ (của 3 lục địa) đã chứng minh rằng vaccin hai hóa trị cho phép tránh được 70% những can thiệp ngoại khoa để lấy đi những thương tổn tiền ung thư. Lợi ích này trên lợi ích được dự kiến, như thế chứng tỏ sự bảo vệ chéo. Ta có thể hy vọng một tỷ lệ bảo vệ chống hơn 85% các ung thư cổ tử cung. Frottis vẫn cần thiết, nhưng chỉ có vai trò bổ sung cho sự tiêm chủng.
Hỏi : Trong thực hành, những lời khuyên của ông là gì ?
GS Roman Rouzier: Ở Pháp, Haut Conseil de la santé publique khuyến nghị tiêm chủng với một hay hai vaccin hiện có ở lứa tuổi 14, nhằm thiết lập một sự bảo vệ hoàn toàn trước mọi tiếp xúc với virus. Nhưng một tiêm chủng “đuổi “(rattrapage) vẫn có thể từ 15 đến 23 tuổi, với điều kiện đã có những giao hợp cách nay dưới 1 năm.
(PARIS MATCH 11/3-16/3/2011)
9/ TA CÓ PHẢI TIÊM CHỦNG CHỐNG UNG THƯ ?
Professeur Philippe Jeanteur
Cancérologue
Membre correspondant de l’Académie de médecine
Vì lẽ chính sự tiêm chủng và chỉ có nó đã cho phép triệt trừ được những tai ương như bệnh đậu mùa và bệnh sốt bại liệt (poliomyélite), thế thì tại sao lại không mơ tưởng một vaccin chống lại ung thư ? Các vaccin cổ điển có chung hai đặc điểm cơ bản, nhưng theo quy tắc chung lại không có thể áp dụng cho ung thư. Trước hết, những vaccin này chỉ nhắm vào những người lành mạnh để bảo vệ chống lại một sự tiếp xúc với một căn bệnh được xác định rõ và không một căn bệnh nào khác. Vài vaccin (thí dụ DT-coq-polio,) có thể bảo vệ chống lại nhiều bệnh rất khác nhau, một cách đơn giản bởi vì đó là những hỗn hợp của những vaccin đặc hiệu. Vậy chúng dùng để phòng ngừa và không để điều trị, nghĩa là chúng chẳng ích lợi gì khi đứng trước một căn bệnh đã phát ra.
Đặc điểm thứ hai là chúng được hướng chống lại những tác nhân nhiễm khuẩn, vi trùng hay virus, xa lạ đối với cơ thể con người, nghĩa là trước đây không hề biết đến chúng. Như thế cơ thể có thể chế tạo một cách an toàn những kháng thể chống lại những tác nhân này, vì lẽ có khả năng rằng những kháng thể này sẽ không quay ngược lại chống chính cơ thể của chúng ta.
Tình huống trong trường hợp ung thư thì lại khác hẳn. Chỉ vài ung thư có thể có những đặc điểm nêu trên và nhất là hai ung thư được biết rõ về mối liên hệ mật thiết của chúng với một virus. Đó là trường hợp ung thư cổ tử cung, rất thường được liên kết với nhiễm trùng bởi virus du papillome, loại mụn cóc sinh dục (verrue génitale) được truyền bằng đường sinh dục và mặt khác hiện nay có một vaccin có hiệu quả chống lại virus này. Đó cũng là trường hợp của ung thư nguyên phát của gan (đừng lẩn lộn với các di căn gan từ những ung thư khác), mà những virus khác nhau chịu trách nhiệm các viêm gan A, B và C là một nguyên nhân quan trọng. Hiện tại, mặc dầu không có vaccin chống viêm gan C, nhưng sự tiêm chủng chống lại các viêm gan A và nhất là B cũng đã tha miễn được nhiều mạng người.
Ta chỉ có thể phàn nàn những chiến dịch thông tin sai lạc, vì căn cứ trên những nguy cơ mắc phải xơ cứng rải rác do tiêm chủng chống lại viêm gan B, mặc dầu không được chứng minh về mặt khoa học, nên đã làm đình chỉ sự tiêm chủng đại trà chống lại viêm gan B, với hậu quả là một sự gia tăng trở lại những trường hợp ung thư gan, nhất là trong các nước châu Á vốn bị tiếp xúc với virus này nhất.
MỘT LOGIC KHÁC HẲN
Như thế ta có thể nói rằng sự tiêm chủng chống lại các virus của papillome và của các viêm gan A và B bảo vệ rất mạnh chống lại các ung thư của cổ tử cung và của gan, tuy nhiên không hoàn toàn triệt trừ chúng vì những ung thư này cũng có thể xuất hiện một cách ngẫu nhiên không do một nhiễm trùng bởi virus. Vậy những vaccin này đúng là có những thuộc tính của các vaccin cổ điển, ở chỗ chúng có một tác dụng phòng ngừa, nghĩa là tác dụng bảo vệ đối với một nhiễm trùng gây nên bởi mot tác nhân bên ngoài.
Điều mà ta gọi là vaccin chống ung thư lại thuộc về một logic khác hẳn. Mặc dầu chúng cũng nhờ đến một phản ứng miễn dịch của cơ thể, như thế biện minh cho thuật ngữ vaccin. Nhưng ở đây, đó không còn là tiêm chủng một người lành mạnh chống lại một ung thư sẽ xảy ra mà là giúp một người bệnh đã bị ung thư chống lại chính khối u của mình. Vậy đó là những “ vaccin điều trị ” được chế biến cho mỗi bệnh nhân riêng biệt.
Một cách sơ đồ, điều đó được thực hiện bằng cách trích lấy khối u của bệnh nhân rồi kích thích (doper) trong phòng thí nghiệm khả năng gây nên một phản ứng miễn dịch của khối u này, bằng những thao tác génie génétique, sau đó tiêm trở lại vào bệnh nhân, nhưng trước đó đã hủy bỏ khả năng sinh ung thư của nó bằng một phát xạ lớn được thực hiện ở phòng thí nghiệm bên ngoài cơ thể của bệnh nhân. Cho đến hôm nay, vài thử nghiệm hiếm hoi trên các bệnh nhân đã chưa mang lại thành công mong chờ, nhưng chiến lược này không hẳn bị bỏ rơi mà vẫn tiếp tục kích thích hoạt động nghiên cứu tích cực cho phép những hy vọng đáng kể trong tương lai gần.
Trong số những hướng nghiên cứu mới đáng lưu ý, ta có thể kể vaccin Provenge chống ung thư tuyến tiền liệt, đang ở một giai đoạn tiến triển của các thử nghiệm lâm sàng vì lẽ vaccin này vừa được chấp nhận đưa ra thị trường ở Hoa Kỳ. Nguyên tắc của vaccin này cũng khá giống với vaccin đã được mô tả trên đây, vì lẽ đó là một autovaccin, được chế biến cho mỗi bệnh nhân nhưng từ máu chứ không phải từ khối u.
Mục tiêu của vaccin Provenge là một chất được sản xuất bởi phần lớn các ung thư tuyến tiền liệt. Chất này đã được biết rõ, vì lẽ đó là PSA (hay ASP : antigène spécifique de la prostate), được sử dụng rộng rãi để phát hiện và theo dõi các ung thư tiền liệt tuyến. Vào giai đoạn còn hạn chế này của thử nghiệm (512 bệnh nhân đã tham gia thử nghiệm đầu tiên và chỉ 2000 bệnh nhân mới sẽ được điều trị vào năm 2010), sự cải thiện là dang kể nhưng ở mức độ vừa phải vì lẽ nó kéo dài tỷ lệ sống sót trung bình từ 21 đến 25 tháng đối với những bệnh nhân đề kháng với những điều trị kháng hormone thông thường và đã bị di căn. Phải còn chờ đợi nhiều tháng trước khi biết được điều trị này có phải là một bước tiến quan trọng của điều trị hay không, nhất là việc thực hiện điều trị rất nặng nề và rất tốn kém (gần 100.000 dollars đối với mỗi bệnh nhân).
(LE FIGARO 30/8/2010)
10/ NGAY CẢ NHIỄM ĐỘC THUỐC LÁ THỤ ĐỘNG CŨNG LÀM DỄ UNG THƯ VÚ.
Juhua Luo và các cộng sự viên (West Virginia University, Morgantown, EU) đã thực hiện một công trình nghiên cứu trong 40 trung tâm lâm sàng ở Hoa Kỳ để đánh giá mối liên hệ giữa sự việc hút thuốc và nguy cơ phát triển một ung thư vú nơi các phụ nữ mãn kinh. Để được như vậy, họ đã căn cứ trên những dữ kiện phát xuất từ 79.990 phụ nữ tuổi từ 50 đến 79, vốn đã tham gia vào công trình nghiên cứu Women’s Health Initiative Observational Study (1993-1998). Toàn bộ, các tác giả đã chứng thực được 3.520 trường hợp ung thư vú xâm nhập trong thời gian theo dõi 10,3 năm.
Lúc so sánh với những phụ nữ đã không bao giờ hút thuốc, nguy cơ ung thư vú là 9% cao hơn nơi những phụ nữ hút sớm và 16% cao hơn nơi những phụ nữ vẫn còn hút. Mặt khác, các nguy cơ đã gia tăng một cách quan trọng nếu những người tham gia là những người nghiện thuốc nặng từ lâu hay nếu họ đã hút từ tuổi thiếu niên. Nguy cơ gia tăng bị ung thư vú vẫn được duy trì cho đến 20 năm sau khi đã ngừng hút.
Nơi các phụ nữ đã không bao giờ hút thuốc, sau khi đã điều chỉnh một loạt các yếu tố có khả năng ảnh hưởng, nhóm vốn đã chịu nhiều nhất nhiễm độc thuốc lá thụ động (tabagisme passif) (hơn 10 năm trong thời thơ ấu, hơn 20 năm lúc trưởng thành ở nhà, và hơn 10 năm lúc trường thành ở nơi làm việc) dường như cũng có nguy cơ phát triển một ung thư vú hơn những phụ nữ đã không bao giờ bị nghiễm độc thuốc lá thụ động. Trong nhóm bị ít nhiễm độc thuốc lá thụ động, mối liên hệ với ung thư vú có vẻ ít rõ ràng hơn.
Các tác giả, mà công trình nghiên cứu đã được công bố on line trong số 1 tháng ba của British Medical Journal đã kết luận rằng chứng nhiễm độc thuốc lá chủ động làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ mãn kinh. Về nhiễm độc thuốc lá thụ động, nó cũng làm dễ sự gia tăng của nguy cơ này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 25/3/2011)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(21/3/2011)
Pingback: Thời sự y học số 613 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương
Pingback: Thời sự y học số 620 – BS Nguyễn Văn Thịnh | Tiếng sông Hương